“Thố đồng”, cùng với thạp đồng và trống đồng, tạo nên một bộ sưu tập hiện vật mang đậm chất Đông Sơn. Tuy nhiên, với thạp và đặc biệt là trống, có không ít những bài nghiên cứu, những chuyên khảo, theo đó, chức năng của những hiện vật ấy đã được đề cập, cho dù vẫn chưa biết lúc nào mới có hồi kết.
Đó là một lẽ đương nhiên, bởi chúng ta đang tư duy về những hiện tượng ở một thời xa xăm, cách chúng ta hơn hai nghìn năm, rồi lại vướng phải cách sử dụng đa chức năng của ông cha và sự đa ngữ nghĩa của những vật dụng, đặc biệt những ngữ nghĩa ấy ở tầng cao của tôn giáo, tâm linh và tầng sâu của tín ngưỡng và phong tục… thì việc giải mã chức năng của những vật dụng thật là khó, nhiều khi vô vọng. Với lý do ấy, sẽ không ngần ngại, để đưa ra một giả thiết chức năng thông dụng của những chiếc “thố” đồng, với mong muốn tiếp cận tới sự thực khách quan và mong nhận được sự quan tâm thảo luận của những đồng nghiệp xa gần, đặc biệt là từ các nhà nghiên cứu Đông Sơn.
1. “Thố đồng” có dạng như một chiếc lẵng hoa, miệng và đế loe bằng, vành miệng rộng hơn vành đế, thân trụ, có xu hướng thót dần, trông giống như một chiếc loa để ngược. Dường như đó là dạng hình phổ biến và thống nhất trong sưu tập “thố đồng” thời Đông Sơn. Tuy nhiên, cũng trên cấu trúc hình này, có một số tiêu bản, có đôi ba yếu tố bổ sung, gây sự bất ngờ, ví như những đường sống ở thân khiến có sự phân lập thành hai phần, tạo nên những sự dị biệt trong đồng nhất ở các thố đồng thời đại này.
Thố đồng: Văn hóa Đông Sơn, 2500-2000 năm cách ngày nay.
Cao:23cm; Đkm: 22cm; Đkđ: 30,3cm
Thống nhất trên dáng hình, những kích thước của “thố đồng” khá biến thiên. Có những chiếc lớn, đường kính tới 30cm (kể cả thành miệng) cao tới 35cm và lòng sâu khoảng 32cm. Nhưng cũng có những thố nhỏ, đường kính khoảng 3cm, cao 3,2cm, lòng sâu 3cm, mà những nhà nghiên cứu Đông Sơn thường gọi chúng là những “thố” minh khí, thu nhỏ, chôn theo người chết. Rất tiếc là, cho đến nay, chưa có một công trình chuyên khảo nào về “thố đồng”, nên không ai trong chúng ta biết được đích xác số lượng hiện nay là bao nhiêu? Kích thước của chúng biến thiên như thế nào? Đó là con số thống kê rất cần được quan tâm, và chắc chắn sẽ giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu mọi mặt của “thố đồng”, trong đó có vấn đề chức năng sử dụng.
Hoa văn trên “thố đồng” khá phong phú và tương đối đồng nhất với trống đồng và thạp đồng, khiến chúng ta không thể phủ nhận được nguồn gốc Đông Sơn của bộ di vật này. Tuy nhiên, ngoài những hoa văn hình học như vòng tròn đồng tâm, vòng tròn tiếp tuyến, văn chữ S hay kỷ hà, còn có những băng hoa hình thú, hình chim, hiếm hoi và đặc biệt. Những băng hoa này có bố cục tròn, trang trí trên thành miệng hoặc bên ngoài thân “thố”, chứng tỏ chúng được tạo ra nhằm vào việc trang trí. Trên thành miệng thông thường có đôi quai treo hình chữ U, nhưng không ít thố có những tượng tròn như chim mỏ dài, đầu quay dụi vào cánh hay tượng ốc… đặt xen kẽ với quai, đối xứng nhau. Có hai chiếc “thố”, cấu trúc hình khá đặc biệt so với chủng loại, đó là vành miệng và đế rất rộng, thân có sống nổi, trông giống như một chiếc cốc, trên trang trí nhiều hoa văn khá đặc biệt, với sự kết hợp giữa hoa văn hình học và hoa văn chim, thú, cùng với 2 hoặc 4 khối tượng người ngồi bó gối trên vành miệng, như là một sự thay thế cho những đôi quai chữ U thông thường mà ta vốn thấy trên các “thố” đồng. Kiểu ngồi bó gối tạo nên những lỗ hổng để xỏ dây, thay thế cho quai treo, nhưng điểm đặc biệt hơn, những khối tượng ấy không khác gì tượng người trên cán dao găm Đông Sơn, mà chúng ta đã từng thấy, nhưng vô cùng hiếm hoi và đặc biệt.
Một trong hai chiếc thố nêu trên, hiện đang được lưu giữ và thuộc quyền sở hữu của một sưu tập tư nhân ở Hà Nội, tôi còn thấy một chiếc đĩa hình bán cầu bằng đồng, giữa có một tim nhọn, có bốn lỗ nhỏ bằng đầu tăm ở vành miệng, được chủ nhân cho biết nằm trong lòng thố khi phát hiện, đồng thời còn thấy cả một dàn chuông 8 chiếc, phân đều, nằm dưới miệng và đế thố, khiến càng củng cố thêm cho nhận định của mình cùng các đồng nghiệp rằng, “thố đồng” vốn là vật để treo. Điều đó, kết hợp với hoa văn trang trí ở trong miệng và ngoài thố, hẳn sẽ gợi mở đôi điều về chức năng, công dụng của những chiếc “thố đồng” khi đương thời.
2. Vật dụng bằng đồng vừa lược tả trên đây, được các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi là “thố đồng”. Không biết thuật ngữ này có từ bao giờ và bắt nguồn từ đâu? Có lẽ nó bắt đầu từ sự chuyển ngữ chữ Hán sang tiếng Việt “Thố”, do một số nhà nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam được đào tạo ở Trung Quốc từ những năm 1960 thực hiện. Tuy nhiên, nếu hiểu đúng từ này theo nghĩa cổ xưa nhất thì đó không chỉ là “thố”, mà có cả “thạp” nữa. Với “thạp” thì chúng vốn là những đồ đựng hay là những quan tài đựng tro than người chết lúc hỏa thiêu, mà ta đã được thấy ở Đào Thịnh (Yên Bái) và gần đây ở Đông Sơn (Thanh Hóa) chứa di cốt, chứng tích của tục cải táng thời Đông Sơn. Vậy nên, “thố đồng” cũng có chức năng này, nếu hiểu theo đúng nghĩa của từ Hán cổ. Thế nhưng, di tồn còn lại trong các “thố” thời Đông Sơn hiện biết lại không ủng hộ cho ngữ nghĩa này và theo ý kiến cá nhân, tôi cho rằng “thố đồng” của người Hán không có dạng hình như những cái được gọi là “thố đồng” ở Việt Nam. Thực tế, người Trung Quốc hiện tại gọi “thố” với hàm nghĩa chức năng rộng hơn thế nhiều, chúng bao gồm cả những bình chứa.
Thố đồng: Văn hóa Đông Sơn, 2500-2000 năm cách ngày nay
Cao: 32cm. Phát hiện tại Đông Sơn, Thanh Hóa
Nhà sưu tập Việt Nam gọi “thố đồng” Đông Sơn là những lẵng hoa, mà theo tôi hiểu, hoàn toàn dựa theo cấu hình. Rõ ràng, “lẵng hoa” không phải tên gọi thể hiện chức năng, công dụng, bởi “hoa lẵng” là một thứ nghi thức mới du nhập vào Việt Nam, sớm nhất cũng bắt đầu từ thời Pháp thuộc. Hơn thế, những chiếc “thố đồng” có kích thước nhỏ (không kể minh khí) và rất sâu lòng, sẽ không thích hợp cho việc cắm hoa lẵng như chúng ta đã từng thấy hôm nay. Vả lại, ở một xứ nhiệt đới, rừng rậm, nhiều mây, tre, nếu người Đông Sơn đã sáng tạo ra lẵng hoa thì chẳng khi nào lại dùng đồng - một nguyên liệu quý hiếm đương thời để làm lẵng hoa, khi cặp đôi hoa/ nước luôn xung khắc với đồng.
3. Vậy thì, những chiếc “thố đồng” Đông Sơn nên được gọi là gì và chức năng sử dụng của chúng ra sao? Sự miêu thuật của tôi về những chiếc “thố” trên đây còn sơ sài và thiên về hình loại, nhưng, ở đôi ba dẫn dụ, ít nhiều đã hé lộ chức năng của những chiếc “thố đồng”. Tôi cho rằng, những chiếc “thố đồng” có kích thước lớn và trung bình chỉ là những vỏ ngoài của một loại đèn treo thời Đông Sơn. Chiếc vỏ ngoài này được bố cục hình khá hoành tráng và hoa văn trang trí khá cầu kỳ và bắt mắt, không phải để treo cao như những cây đèn thời hiện đại, mà nó chỉ ngang tầm ngồi. Với cách treo ấy, chúng thích hợp với bối cảnh của những buổi tế lễ mà ở phần dưới xin được đề cập.
Khẳng định đó là những cây đèn, bởi chúng tôi có trong tay tư liệu của hai đĩa đèn hình chỏm cầu, có tim đèn nhọn đặt bấc ở giữa, nằm lọt nơi miệng “thố” mà trước đây O.Janse gọi những đĩa đèn kiểu này hay tương tự kiểu này là bát đựng rượu, bia - loại đồ uống có xuất xứ Địa Trung Hải và tưởng tượng ra mùi thơm quyến rũ bốc lên bốn tầng mây. Khi ấy, với một tư liệu duy nhất ở trong tay và vốn thiên kiến nguồn gốc văn hóa Đông Sơn là từ phương Tây du nhập tới, như một trào lưu của các nhà khoa học đương thời tại thập kỷ 1940, khiến ông thăng hoa, thì giờ đây, với hàng chục cây đèn và đĩa đèn, có thể khẳng định, chúng giản đơn chỉ là những đồ đựng đầu, bấc - là một trong những thành tố tạo nên một cây đèn hoàn chỉnh. Còn đây được gọi là đèn treo, thì càng rõ ràng hơn, bởi những quai treo hình chữ U, hay những lỗ hổng của kiểu ngồi bó gối trên tượng người, được thay cho quai treo và những quả chuông nhỏ nằm dưới đế của “thố”, như là những chứng cớ không thể phủ nhận yếu tố treo của cây đèn mà lâu nay vẫn được gọi là “thố”. Một chứng cứ khác, mong manh và chưa được xác tín rằng, những người đào bới ra những chiếc “thố” đặc biệt vừa được mô tả trên, còn thấy cả một đoạn dây xích đã rỉ nát - loại xích thường gặp trên những nắp hình con tiện, ấm ba chân, nhưng mỏng manh hơn nhiều.
Với miêu tả ở trên, người đọc đã thấy ở đây hình hài của một cây đèn treo. Để tóm lược cho phần viết này, xin được khôi phục dáng hình những cây đèn hình “thố” như sau: Phần vỏ ngoài của đèn chính là “thố”, được giới khảo cổ học quen gọi bấy lâu nay, trang trí cầu kỳ, tỉa tót với bố cục hình, dẫu nhỏ, nhưng vô cùng hoành tráng, dấu hiệu của sự tôn vinh ở phần vỏ ngoài, chứa đựng nội dung cốt yếu bên trong là đĩa đèn hình chỏm cầu, có tim đặt bấc nơi chính giữa, cũng được xỏ dây treo, song song với dây treo của vỏ đèn, tạo nên sự cách bức giữa đĩa và vỏ đèn tránh độ nóng cho vỏ đèn (xem hình vẽ). Hai hoặc bốn quai hình chữ U, cùng 4 lỗ xỏ dây của đĩa đèn đều được móc bởi các dây xích, và dây đồng mảnh tại nơi đỉnh có móc treo, để người sử dụng móc vào đâu đó nơi xà nhà, tạo cho cây đèn là là ngang tầm mắt, phù hợp với không gian của buổi tế lễ, mà những người hành lễ đều ở tư thế quỳ trên sàn, tại một ngôi nhà sàn kiểu Đông Sơn. Nhưng quả chuông nhỏ dưới đế đèn không chỉ có tác dụng trang trí mà còn phát ra những âm thanh huyền bí mỗi khi có những luồng gió thổi hay những tác động thần linh của pháp sư trong buổi hành lễ. Với những quả chuông này, tôi liên tưởng tới những quả chuông mà lâu nay vẫn được gọi là “chuông voi” chắc hẳn là những dàn chuông có ý nghĩa tâm linh, bố trí trong các buổi tế lễ ấy có sự tham gia của những cây đèn.
Như vậy, cây đèn là một hiện tượng gắn liền với tâm linh và tín ngưỡng, và đó cũng là một hiện tượng khá nổi trội của văn hóa thời hậu Đông Sơn.
4. Đèn thời hậu Đông Sơn ở Việt Nam, cho đến nay, có thể khái quát thành 4 loại. Đèn hình người, đèn hình thú, đèn có cán móc và đèn có quai hoặc dây xích treo, đang được nói tới ở bài viết này. Nếu phân loại nhỏ hơn, sẽ có hàng chục biến điệu khác, ví như đèn thú có loại là thú, voi, bò, hươu, cóc… được xem như những con vật thần linh, tô tem, hay tín ngưỡng và đó lại là những câu chuyện khác, xin được đề cập tới ở một chuyên khảo sâu hơn.
Bảy mươi năm trước, dù mới chỉ có một cây đèn Lạch Trường, O.Janse đã nhìn ra sự liên quan của cây đèn ấy với các tín ngưỡng tôn giáo thần bí Phương Đông hay các hoạt động tế lễ về ban đêm, khi ánh sáng đóng vai trò cơ bản. Đó đồng thời cũng là quan niệm về vũ trụ bao la được thu vào cây đèn, là sự phản ánh cao quý của mặt trời, trăng và sao. Ánh sáng phát ra từ cây đèn như ánh hào quang, và ánh hào quang đó đưa lại cho con người luôn tôn kính thần thánh, tín ngưỡng và sự bất tử.
Đèn liên quan tới tế lễ dường như là đã quá rõ, bởi chúng không chỉ được phản ánh trực tiếp tự thân qua những hình ảnh trên đèn (tượng người quỳ, tượng người thổi sáo, thổi khèn…) mà còn gián tiếp phản ánh qua bố cục hình, với cách treo, cách ghép (tượng voi, thú, bò, cóc), mà ít nhiều tôi đã có đôi lời phân tích ở phần trên. Đèn liên quan tới tế lễ còn phản ánh qua các hiện tượng dân tộc học, mà đến hôm nay, còn thấy trong các buổi tế thần linh của người Việt và ngay cả trên bàn thờ tổ tiên của họ.
Đèn liên quan tới vũ trụ, được phản ánh qua hình tượng chim phượng, bố cục ngay tại đỉnh của loại đèn quang treo, được xem như một loại động vật chúa tể, đứng trên muôn loài, biểu tượng cho sự cao quý và anh minh, để quan sát vũ trụ bao la. Đó là một quan niệm không chỉ có ở người Việt, mà ngay cả người Hàn Quốc cổ cũng lý giải loài chim này như thế. Đèn như một cây vũ trụ còn được nhìn thấy qua một tiêu bản hiện lưu giữ ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam với cây tọa trên lưng voi, bao gồm nhiều nhánh, nhiều tầng với khá nhiều đĩa đèn, có nguồn gốc từ di chỉ Làng Vạc (Nghệ An), thuộc văn hóa Đông Sơn, khiến cho đồng nghiệp của tôi - TS. Vũ Quốc Hiền, nhân một chuyến sang thăm và làm việc tại Trung Quốc, đã có sự liên hệ tới cây vũ trụ ở di chỉ Tam Tinh, Tứ Xuyên, có niên đại, chưa mấy thuyết phục, từ các nhà khảo cổ học Tứ Xuyên, 3500 BP, nhưng với một phát hiện kỳ thú về một cây đèn vũ trụ vĩ đại, trong đó có cả một buổi hành lễ, với nhiều tượng người quỳ xung quanh. Tượng người quỳ Tam Tinh không khác gì những cây đèn tượng người trên các cây đèn thời Đông Sơn mà O.Janse coi đó là những nhạc công thổi sáo, thổi khèn, như một đoạn kết của tái hiện các ông thánh, bà thánh với sự trầm luân của con người cùng sự suy tư về sự lựa chọn con đường đi. Thật ra, tượng người thời Đông Sơn không chỉ có như vậy, phong phú, đa thế và đa nghĩa hơn nhiều, nhưng vào thời ấy O.Janse chưa có đủ tư liệu như hôm nay.
Đèn liên quan tới sự chết chóc thì đã quá rõ, khi chủ yếu những cây đèn ấy tìm thấy trong các mộ táng thời Đông Sơn. Đó không chỉ là quan niệm chia của thông thường, mà còn biểu hiện sự luân hồi của tạo hóa. Cây đèn chính là vật dẫn đường, chỉ lối cho người chết trong cuộc du ngoạn sang thế giới bên kia. Đó cũng chính là sự bất tử, mà cả thế giới loài người, từ xưa tới nay đều quan niệm và được gửi gắm qua tôn giáo và tín ngưỡng.
Giả thiết chức năng của những “thố đồng” thời Đông Sơn qua những tư liệu lúc mở, lúc tỏ, nhưng theo tôi là có đủ chứng cứ thuyết phục, để rồi thăng hoa về ý nghĩa tâm linh của những cây đèn, dường như tôi đã đi quá xa với ý định ban đầu. Thế nhưng, sự xa cách ấy đều có mối dây liên hệ, lúc bền chặt, khi mỏng manh, để minh chứng cho một hiện vật chưa rõ mấy chức năng, thì những dẫn liệu hay lý giải ấy, hẳn sẽ có ích cho người đọc tin hơn về những điều tưởng như không thể. Hơn thế, nếu dõi theo sự phát triển của những cây đèn Việt Nam, thì những kiến giải nêu trên vẫn chưa đủ với bao sự hội nhập và pha trộn các thành tố của tín ngưỡng, tôn giáo, theo đó, sẽ còn nhiều điều muốn nói đến những cây đèn, mà những ý kiến trên đây chỉ mới là sự gợi mở bước đầu. Mong có một dịp khác được tỏ bày kỹ lưỡng hơn.
TS.Phạm Quốc Quân