Trên mảnh đất hình chữ S Việt Nam hôm nay vào thời Sơ sử, có ba đỉnh cao chói sáng: Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo. Đó là ba nền văn hóa của thời đại Đồng và Sắt sớm, ba tam giác tạo nên ba trạm thu phát cực mạnh trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn. Tuy nhiên, trạm thu phát Đông Sơn, theo tôi là dài và rộng hơn cả. Về chiều rộng, xưa nay đã có không ít chuyên khảo đề cập tới những ảnh hưởng qua lại, nhiều chiều tới và đến các nền văn hóa đồng đại với Đông Sơn, nhưng về chiều dài trên dòng sông văn hóa dân tộc, chưa mấy ai đo đếm, hoặc có đo đếm thì cũng chỉ đôi ba hiện tượng, được giải thích bằng việc bảo lưu các yếu tố văn hóa truyền thống1, mà chưa đi tới căn nguyên, bản chất của sự bảo lưu ấy. Vì lẽ đó, cũng bằng cách tiếp cận xưa nay, tôi thử nhìn nghệ thuật Đông Sơn ảnh hưởng như thế nào tới các thế kỷ và triều đại sau đó, ở Việt Nam, theo đó, là bối cảnh địa chính trị, địa văn hóa, tác động tới, khiến cho Đông Sơn có sức sống lâu bền trong truyền thống văn hóa Việt Nam đến như vậy.
Trống đồng Ngọc Lũ, văn hóa Đông Sơn, khoảng 2.500 – 2000 năm cách ngày nay (Bảo vật Quốc gia)
Người nghiên cứu nghìn năm Bắc thuộc đã nhìn thấy các yếu tố Đông Sơn trên những di vật, đặc biệt là buổi đầu Công Nguyên, mà xưa nay, chúng ta quen gọi là Hán - Việt hay Việt - Hán. Tuy nhiên, với những công trình nghiên cứu gần đây, các nhà khảo học Mỹ và Trung Quốc, đều cho bộ sưu tập ấy hoàn toàn là bản địa, có chịu ảnh hưởng Trung Nguyên, nhưng đã được bản địa hóa qua khối Việt Phương Nam2. Bởi thế, chúng chẳng phải Hán, cũng chẳng phải Việt, do có một cơ tầng vững chắc Đông Sơn, theo đó, ta thấy hoa văn Đông Sơn trên trống chậu, trên đĩa ba chân bằng gốm, hình bóng Đông Sơn trên ấm đầu voi, trên đồ gốm đáy tròn văn thừng thô của giai đoạn Đường Cồ, trong các ngôi mộ thuyền đầu Công Nguyên và đi liền với nó là chủ nhân ăn trầu, nhuộm răng đen.
Một số đồ tùy táng trong mộ thuyện Việt Khê
Đông Sơn vào một, hai thế kỷ đầu Công Nguyên vẫn hiện hữu như một chỉnh thể để hội nhập yếu tố bên ngoài, chứ các yếu tố bên ngoài không thể giải thể nổi Đông Sơn. Chủ thể Đông Sơn điều tiết để hội nhập, tiếp thu cái mới, chối bỏ cái không phù hợp. Vì lẽ đó, tôi không tin khi có một ai cho rằng, cứ bên trên lớp Đông Sơn là lớp văn hóa thời Đông Hán. Đó thực ra là lớp muộn Đông Sơn mà người Pháp trước đây đã có lý khi coi giai đoạn này là Đông Sơn muộn.
Thạp đồng Đào Thịnh, văn hóa Đông Sơn, khoảng 2.500 – 2000 năm cách ngày nay
(Bảo vật Quốc gia)
Thế nhưng, từ thế kỷ thứ 4 đến thể kỷ 10, đêm trường Bắc thuộc phủ bóng đen trên bầu trời Âu Lạc, tưởng đâu như một áp lực cưỡng bức cho quá trình giải thể văn hóa bản địa và đồng hóa từ các triều đại Lục Triều - Tùy và Đường, khi mà Đông Sơn và cơ tầng của nó đã bị nhạt phai, lung lay, thì bộ di vật của những thế kỷ ấy tìm thấy ở Miền Bắc Việt Nam lại rất ít yếu tố ngoại lai khiến cho cố Giáo sư, Viện trưởng Viện Khảo cổ học Phạm Huy Thông cho rằng “Chính vì chống Hán - Đường mà ta mới là ta”. Thật ra, đến lúc này, trên bệ đỡ Đông Sơn, người Việt đã có đủ thời gian tái cấu trúc kinh tế, xã hội theo hướng thích nghi, để có một bộ sản phẩm gốm Đại Lai (Thuận Thành, Bắc Ninh) không giống với Lục Triều chính quốc, dù công nghệ xây lò, quy trình làm gốm, tổ chức sản xuất có sự tiếp thu. Đến thể kỷ 10, qua bộ sưu tập gốm tại lò Đương Xá (Yên Phong, Bắc Ninh), dường như ta thấy từ phong cách, kỹ thuật, chất liệu đến hoa văn trang trí lại quay về với truyền thống, mà đã có ý kiến cho đó như một mạch ngầm xuyên suốt 10 thế kỷ thuộc Bắc, khi có điều kiện, phun trào, tạo nên sự phục hưng của văn hóa Việt. Đúng là có mạch ngầm, nhưng lý do nào để mạch ngầm ấy không bị vùi lấp trước những biến cố động trời của 1000 năm? Đó chính là cốt lõi vật chất Đông Sơn mà chúng ta đã thấy rực rỡ đến nhường nào và nó được gìn giữ ở cộng đồng, theo tôi, chủ yếu trong tín ngưỡng dân gian, mà tín ngưỡng dân gian ấy vốn là hồn cốt của một tôn giáo, dù không có giáo lý, kinh kệ, nhưng có sức sống và tác động khá mạnh tới lịch sử, văn hóa, nghệ thuật Việt, trong suốt dặm dài lịch sử, đó là Đạo giáo, mà ngay từ cuối thời Đông Sơn, O.Janse đã nhận ra3. Lẽ đương nhiên, trong quá trình đồng hành của các tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam, lịch sử đã minh chứng rằng, mỗi tôn giáo có lúc hưng, lúc suy, theo đó, chi phối tới văn hóa Việt Nam mà chúng ta đã nhận ra trong quá khứ cũng như hiện tại.
Sưu tập đồ trang sức, đồng, thủy tinh, văn hóa Đông Sơn, khoảng 2.500 - 2.000 năm cách ngày nay
Bước sang thời Lý, Trần, thời đại được mệnh danh là phục hưng của văn hóa Việt, thành tố Đông Sơn tái xuất dầy đặc hơn trên nghệ thuật của thời đại này. Đó là những đồ gốm, đồ đá được thể hiện trên loại hình, mà ta nhận ra thạp gốm hoa nâu khá giống với thạp đồng Đông Sơn. Rồi những hoa văn hình người, hoa văn hình tròn đồng tâm, tiếp tuyến với bố cục băng dải, theo hình tròn, thuận hoặc ngược chiều kim đồng hồ, như là những mẫu hình được gốm hoa nâu thời Lý - Trần - một dòng gốm được coi là đặc trưng nhất Việt Nam - sao chép trên trống đồng, thạp đồng thời Đông Sơn. Sự tái xuất những yếu tố Đông Sơn trên đồ gốm của hai triều đại, lấy Phật giáo làm quốc giáo, dường như là một sự lạc lõng, không ăn nhập với các họa tiết hoa sen, lá đề, Phật thiền, lại một lần nữa thấy rõ sức sống Đông Sơn và sức sống ấy được bảo lưu trong tâm thức và tín ngưỡng dân gian, để khi có điều kiện là phô bày, phát huy theo cảm hứng của nghệ sĩ.
Có ý kiến cho rằng, sức sống và thành tố Đông Sơn còn lưu giữ lại được trong nghìn năm thuộc Bắc cũng như vào thời Lý - Trần là do một bộ phận người Việt bị dồn đẩy lên vùng núi cao dưới sức ép của chính quyền đô hộ Phương Bắc, theo đó, họ đã gìn giữ được truyền thống để rồi khi đất nước độc lập, bộ phận dân cư ấy đã góp mặt tạo nên sự trở lại ngoạn mục của nghệ thuật Đông Sơn vào thế kỷ 11 - 14.
Tôi nghĩ rằng, Đông Sơn được gìn giữ trong cộng đồng ở ngay trong thời Bắc thuộc và ngay chính giữa lòng châu thổ Bắc Bộ của văn hóa làng - xã. Nó có cơ tầng đủ vững để chống chọi với ngoại lai, do nó là tư tưởng, tín ngưỡng của dân nên khó có sức mạnh nào có thể giải thể. Chính vì lẽ đó, khi nước nhà độc lập, những người dân bản địa được làm chủ, quay về với truyền thống Đông Sơn như một tất yếu, khi Lý - Trần chưa đủ thời gian xây đắp một cơ tầng văn hóa riêng, chí ít ở những thập niên đầu thời độc lập tự chủ.
Còn những người miền núi gìn giữ, bảo lưu truyền thống Đông Sơn - đặc biệt là người Mường Hòa Bình, đã được cố Giáo sư Từ Chi chỉ ra qua những “hóa thạch” Đông Sơn trên hoa văn cạp váy4, hay cố Giáo sư Trần Quốc Vượng phân tích trên từ vựng Mường5, dường như lại xuất hiện muộn hơn, tương đồng với sự kiện Mường tách ra khỏi khối Việt - Mường chung, mà Giáo sư Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương, Nguyễn Văn Tài cho đâu đó vào cuối thế kỷ thứ 106. Gần đây, tôi cho thời điểm tách ra ấy khoảng thế kỷ 12 - 137, dựa trên sự tương đồng về cách thức mai táng của người Việt (Kinh) và người Mường tầng lớp quý tộc (Lang Cun, Lang Đạo), cùng nhiều sợi dây liên hệ giữa hai dân tộc này, mà vào thời điểm chia tách, không gian chủ yếu diễn ra là vùng Hà Nội (cũ) là trung tâm. Bộ phận Mường tách ra khỏi khối Việt - Mường chung lấy địa bàn liền kề làm nơi cứ trú, đó là Hà Tây (cũ) và Hòa Bình, theo đó, chỉ có Mường Hòa Bình giữ lại nhiều chất Đông Sơn trong đời sống, còn ở Thanh Hóa, Nghệ An, Phú Thọ đã phôi pha khá nhiều. Tôi càng tin hơn, thế kỷ 12, 13 là thời điểm chia tách, khi đọc áng văn “Vườn hoa núi cối” của Mường Thàng Dũng Phong (Hòa Bình) thấy xuất hiện câu chuyện vua Lý gả bán công chúa cho Lang Cun, và hàng loạt những đồ gốm Lý - Tống thuộc hạng Hoàng phủ có mặt ở Mường, như là những minh chứng cho mối quan hệ Mường - Việt còn vô cùng khăng khít vào thời ấy.
Quan hệ Mường - Việt, hay chính xác hơn là chính quyền Trung ương với các tù trưởng địa phương thời Trần, Lê Sơ, Lê Trung Hưng vẫn chặt chẽ, nhưng lại nằm trong một chiến lược hoàn toàn khác, nhằm ràng buộc biên viễn với Trung ương, qua chế độ “Kimi” hoặc phong chức tước lớn cho các quý tộc Mường, mà hòn mồ họ Quách, Mường Động Kim Bôi (Hòa Bình), cho hay, ông là Vĩnh Lộc hầu, Vệ Cẩm y8. Chế độ phong chức tước lớn cho tù trưởng tạo nên một Lê Lợi, gốc gác Mường, có uy tín và thế lực, tập hợp nghĩa quân, làm lãnh tụ khởi nghĩa Lam Sơn, để tạo dựng được một triều đại dài lâu nhất trong lịch sử Việt Nam.
Sang thời Lê - Mạc, Phật giáo không còn là Quốc giáo, khiến phải trấn hưng. Nho và Khổng chiếm ưu thế. Đây là hai tôn giáo phát huy trong giới trí thức, quý tộc, trong khi Phật và Đạo chủ yếu liên hệ với tín ngưỡng dân gian, theo đó, dường như chất Đông Sơn mang tinh thần của Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian ít thấy xuất hiện ở hai triều đại này, hay chí ít là trong thời Lê Sơ. Lúc này, cơ tầng văn hóa nghệ thuật được đắp xây trên nền tảng của Khổng - Nho. Đương nhiên đó là xét trên dòng văn hóa nghệ thuật chính thống, còn trong nhân dân, nghệ thuật dân gian vẫn có chất phồn thực của Đông Sơn mà ta đã thấy ít nhiều trên các mảng trang trí đình làng thời cuối Lê.
Đến thời Nguyễn, đặc biệt là giai đoạn mãn chiều, khi mà Khổng - Nho nhạt phai, Thiên Chúa giáo chưa trở thành tôn giáo của đa số, thì cùng lúc ấy, tín ngưỡng dân gian lại trỗi dậy, được thể hiện đậm nhất trên những cây đèn thờ, trong những ngôi đền Đạo giáo hay những ban thờ tổ tiên.
Cây đèn hình người quỳ, đồng, khoảng 2000 – 1700 năm cách ngày nay (Bảo vật Quốc gia)
Cây đèn gắn chặt với đời sống người Việt nói riêng và với các dân tộc Phương Đông nói chung từ hơn hai nghìn năm trước. Với người Việt, có từ thời Đông Sơn, mà người ta tìm thấy trong những ngôi mộ cổ, được O.Janse bảo đó như là vật dẫn đường, chỉ lối cho người chết trong cuộc du ngoạn sang thế giới bên kia. Đó là thế giới bên kia trong quan niệm của người sống với cái chết. Còn trong cõi sống, các quan niệm tôn giáo thần bí Phương Đông hay trong các hoạt động tế lễ về ban đêm, ánh sáng đóng vai trò rất cơ bản. Điều này có quan hệ gần gũi với những ý tưởng về vũ trụ bao la và được xem như là sự phản ánh cao quý của mặt trời, trăng và sao. Ánh sáng là biểu tượng của tâm hồn và chứa đựng nội dung thiêng liêng. Ánh sáng phát ra từ cây đèn như hào quang. Ánh hào quang đó đưa lại cho mỗi con người luôn tôn kính thần thánh, tín ngưỡng và sự bất tử. Những cây đèn có thể được xem là biểu hiện luân hồi của tạo hóa.
Vị trí của cây đèn trong tôn giáo Phương Đông là như vậy, theo đó, những cây đèn thời hậu Đông Sơn phong phú vô cùng; Đèn hình người, đèn hình linh thú, đèn hươu, đèn bò, đèn voi,… cùng nhiều loại đèn khác nữa, không mấy liên quan tới điều đang luận bàn. Những hình thú này đều là đế của cây đèn, còn bên trên là một cây (đèn) có liên quan tới cây vũ trụ. Cây vũ trụ có những đĩa và đèn thắp sáng ban đêm, là biểu tượng của trăng, sao mà con người và cộng đồng hành lễ xung quanh, biểu hiện lòng tôn kính, khẩn cầu cho vũ trụ yên bình mà biểu tượng vũ trụ chính là cây đèn. Sự thần bí của vũ trụ, của siêu nhiên, là cốt lõi của tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng ấy liên quan tới Đạo giáo.
Trở lại với những cây đèn thời Nguyễn. Đó là cây đèn tôi đã bàn9, được thờ trong quán Đạo giáo, có liên quan tới những cuộc hành lễ của Đạo giáo, có rất nhiều thành phần mang nặng yếu tố Đông Sơn (Đĩa đèn hình quang treo, cây vũ trụ). Không chỉ có một cây đèn, mà một phức hợp đèn, trong đó có hình hươu đứng trên bệ giả sơn, giống với đèn hươu Đông Sơn ở Làng Vạc (Nghệ An), hay đèn hình người (tễu) hao hao giống cây đèn Lạch Trường thời hậu Đông Sơn ở Thanh Hóa và một số cây đèn hình người khác cùng thời. Rồi hạc đứng trên rùa trong bộ ngũ sự của đồ thờ thời cuối Nguyễn, phảng phất chim bồ nông và rùa của nghệ thuật tạo hình Đông Sơn, khiến có sự liên hệ tưởng như xa vãng giữa nghệ thuật Đông Sơn với nghệ thuật Nguyễn, được biểu hiện trên đồ thờ và đặc biệt là cây đèn thờ. Sự ảnh hưởng xa xăm ấy, chắc chắn phải gắn với tín ngưỡng tâm linh, khiến tôi nghĩ rằng, nghệ thuật tôn giáo thường có sức sống lâu bền và sự lâu bền của Đông Sơn được xây dựng trên tầng nền của tín ngưỡng dân gian mà thành tố cơ bản của nó là: Thần linh, vũ trụ, âm dương ngũ hành.
Nghệ thuật Đông Sơn được dựng xây trên tinh thần ấy là cơ bản, theo đó, có sức sống trường tồn trong đời sống Việt, cho dù có lúc hưng, suy nhưng luôn được bảo lưu như một di sản truyền thống. Bài viết của tôi muốn bước đầu giải thích căn nguyên của sức sống Đông Sơn trong dặm dài lịch sử văn hóa dân tộc, mà những dẫn dụ trên chỉ là những chấm phá chưa thật tỏ tường, khiến người đọc chưa thể hình dung hết. Phải chăng, đó là lỗi của người viết, còn hiện tượng sức sống Đông Sơn được bảo lưu là không thể phủ nhận, mà tôi muốn cùng bạn đọc tiếp tục đi sâu giải thích cho một hiện tượng hết sức đặc biệt này của văn hóa Việt Nam.
TS.Phạm Quốc Quân
Tài liệu dẫn:
1. Nguyễn Đình Chiến: Những tín hiệu của nghệ thuật Đông Sơn sau một thiên niên kỷ. NPHM KCH, NXB KHXH, Hà Nội, 1983, tr 209 – 211.
2. Marylynn Larew: Trở lại với Janse: Đồ tùy tùng ở Thanh Hóa - Một thế kỷ khảo cổ học ở Việt Nam, tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 2005, tr 23 – 46.
3. O.Janse: Bí mật cây đèn hình người, Hà Nội, tr 20.
4. Trần Từ: Hoa văn Mường, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1975.
5. Trần Quốc Vượng: Việt Nam thế kỷ X: Văn hóa, văn minh thế kỷ 10 - Những vấn đề lịch sử, NXB KHXH, Hà Nội, 1990.
6. Hà Văn Tấn - Phạm Đức Dương: Về ngôn ngữ tiền Việt - Mường, Dân tộc học số 1, tr 64 – 69.
- Hà Văn Tấn: Văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam thời Tiền sử, Khảo cổ học, số 1/1991, tr 4.
- Nguyễn Văn Tài: Góp thêm tài liệu cho việc đoán định thời điểm chia tách hai ngôn ngữ Việt và Mường, Dân tộc học, số 3/1978.
7. Phạm Quốc Quân: Từ niên đại Mộ Mường thử tìm niên điểm tách ra của người Mường khỏi khối Việt Mường chung. Khảo cổ học, số 1/1995, tr 18 – 30.
8. Phạm Quốc Quân: Gốm sứ trong mộ Mường - Nguồn gốc, niên đại và lý do về sự có mặt của chúng ở Mường, Khảo cổ học, số 4/1997, tr 69 – 81.
9. Phạm Quốc Quân: Về cây đèn thờ bằng sắt thời Nguyễn, Thông báo Khoa học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 2009, tr 147 – 152.