Đề tài hoa văn trang trí trên đồ gốm sứ tàu cổ Cà Mau rất phong phú theo truyền thống Trung Quốc và theo yêu cầu đặt hàng của châu Âu, thể hiện bằng các kỹ thuật in khuôn, khắc, vẽ lam dưới men, vẽ màu trên men và sự kết hợp các hình thức:
Đề tài hoa văn trang trí trên đồ gốm sứ tàu cổ Cà Mau rất phong phú theo truyền thống Trung Quốc và theo yêu cầu đặt hàng của châu Âu, thể hiện bằng các kỹ thuật in khuôn, khắc, vẽ lam dưới men, vẽ màu trên men và sự kết hợp các hình thức:
Đề tài truyền thống Trung Quốc:
- Đề tài con người với phong cách ăn vận theo kiểu đời Minh vẽ trên loại đĩa to, chậu, bình có quai, kendi; hình thiếu nữ tóc búi cao, áo váy dài vẽ trên đĩa, chén, bình; hình trẻ thơ vẽ trên đĩa (Fig32,35,38).

- Đề tài phong cảnh sơn thuỷ tùng đình, nhân vật như những bức tranh thu nhỏ trên đĩa, ấm, chén. Ở đây, nhân vật thường gặp là một ông già đi trước và một tiểu đồng vác ô theo sau. Nhiều đề tài phản ánh điển tích cổ Trung Quốc như người cưỡi ngựa, người cưỡi trâu và nghé, người múa trống, trèo tường, bẻ liễu, ngư tiều vấn đáp, đạp tuyết tầm mai... Lại có cả những đề tài sinh hoạt, lao động: quạt lò, đun nước, cất vó, quăng chài, kéo lưới, úp cá, chọi gà, bơi thuyền, câu cá, ngư ông đắc lợi (Fig34,37).

- Đề tài động vật có từ loại linh thú như rồng, phượng, sư tử, ngựa, trâu, khỉ, hươu, thiên nga, chim công, chim nhỏ, cá, cua, tôm, ong, bướm, chuồn chuồn. Trong đó có những cặp đề tài: "tùng lộc, mã liễu, phù dung, chim trĩ"...(Fig30,31,33,39)

- Đề tài hoa lá có các loài hoa lá sen, hoa chanh, hoa cúc, mẫu đơn, tùng, mai, trúc, ngô đồng.
- Các đề tài khác là hồi văn, vạch chéo song song, mạng kim quy, chữ Phúc, Vạn, Thọ, bát bảo của Nho giáo hay Đạo giáo.
Mỗi loại đề tài dù đơn giản hay phức tạp nhưng được thể hiện nhiều kiểu khác nhau tạo nên sự phong phú của đề tài. Chẳng hạn, đề tài "người cưỡi trâu, nghé với cây liễu rủ và 2 con chim bay” chúng ta thấy đã được thể hiện trên các loại hình đồ sứ hoa lam sau đây: loại đĩa miệng hình thoi, hình lục giác; bát, choé và ấm.
Đề tài châu Âu biểu hiện rõ ràng nhất trên đồ gốm sứ trong tàu cổ Cà Mau là ở bộ đĩa sứ hoa lam có 5 cỡ, đường kính miệng từ 20,5 đến 29,2cm, cao từ 2,6 – 3cm. Đây là loại đĩa có cùng kiểu dáng, miệng loe ngang, lũng phẳng, đế thấp và rộng. Giữa lòng đĩa vẽ phong cảnh làng chài ở đảo Deshima (Hà Lan) với đồi cát, một người đàn ông dắt một con bò và 2 người khác đang dạo bước. Một ngọn hải đăng, một mái nhà thờ và mái những ngôi nhà bên cạnh những tàu đánh cá. Viền mép đĩa vẽ băng sóng nước nước hình lưỡi câu. Thành ngoài đĩa vẽ 3 cành hoa lá (Fig40 - 41).

Loại đĩa này được nhiều người biết đến và trang trí của nó thường được mô tả là hậu cảnh Scheveningen mặc dù trong quá khứ nó được biết đến là phong cảnh Deshinia, nơi người Hà Lan đã chiếm giữ trong nửa cuối thế kỷ XVII và XVIII.
Từ thế kỷ XVIII, loại đĩa này được gọi là “phong cảnh Scheveningen” trong một danh bạ bán hàng (Catalogue) có niên đại 1778.
Đĩa sứ Trung Hoa với môtíp hoa văn Châu Âu theo yêu cầu đặt hàng và vì thế có thể gọi là “hàng đặt Trung Quốc”. Theo tài liệu của Giáo sư Chritiaan J.A Jörg, nguyên là Curator of the Groninger Museum, loại đĩa Nhật Bản có trang trí tương tự được sản xuất tại khu vực lò Arita cho Hà Lan vào khoảng năm 1700 (Fig42).

Những tiêu bản đó quen gọi là đĩa “phong cảnh Scheveningen”. Đĩa loại này dựa trên một mẫu đĩa của thị trấn Delf ở Hà Lan và được đặt bởi người Hà Lan tại Deshima để sản xuất trên một diện rộng. Môtíp hoa văn trên đĩa này khá phổ biến trên các loại cốc, đĩa để đồ ăn và vật dụng đồ bếp khác. Hầu hết những loại hình này có niên đại vào khoảng 1/4 đầu thế kỷ XVIII mà không còn thấy một mẫu mã nào sau năm 1730.
Giáo sư Chritiaan J.A Jörg còn chỉ ra 2 loại đĩa sứ hoa lam trong tàu cổ Cà Mau, đường kính miệng 29,5cm và 37cm, trong lòng vẽ 2 cành hoa lá, xung quanh bổ ô, bên trong vẽ hoa lá cùng biểu tượng của đồ vật quý cùng các mẫu đĩa vẽ kiểu Kraak, cũng là những kiểu loại đồ sứ xanh trắng truyền thống của Nhật Bản sản xuất theo yêu cầu của người Hà Lan (Fig43).

Trong tàu cổ Cà Mau cũn cú loại bỡnh cú quai, miệng đứng, cổ hỡnh trụ, thõn dưới phỡnh, đáy lừm, quai hỡnh khuyờn, đường kính miệng 8,5cm, chiều cao từ 20 đến 20,5cm. Những bình có quai có lẽ là một loại đồ uống bia cũng lần đầu tiên xuất hiện, mặc dù trang trí vẽ theo đề tài Trung Quốc.
Trang trí trên loại bình này là phong cảnh nhân vật theo tích cổ Trung Hoa hay hoa lá. (Nguyễn Đình Chiến, 2002b, tr.158-159). Ngoài ra còn có loại bình có quai, dáng quả đu đủ, đường kính miệng 4,2cm, chiều cao 15,7cm (The Ca Mau, 2009, tr. 187-188). Trang trí trên bình loại này vẽ phong cảnh sơn thuỷ lâu đài, (Idemitsu museum of Arts, 1984, tr. 13).
Điều lý thú là khi so sánh về loại hình của loại bình có quai này chúng ta thấy sự tương đồng gần gũi giữa bình có quai Cà Mau, niên đại 1725 với loại bình có quai Imari ware Nhật Bản, thế kỷ 17 (ảnh 29) và Bristol ware của Anh, thế kỷ 18 (ảnh 30) (Idemitsu museum of Arts, 1984, tr. 15).


Số lượng hàng hoá gốm sứ trên tàu cổ Cà Mau là rất lớn mà trong số đó, chủng loại một số hàng hoá mang phong cách thị hiếu châu Âu cùng một số môtíp phương Tây cũng không đồng nghĩa rằng toàn bộ số hàng hoá này hướng tới Batavia hay đáp ứng cho khách hàng phương Tây. Trường hợp này cũng tương tự như hàng hoá trong tàu cổ Hòn Cau, xảy ra trước tàu Cà Mau mấy chục năm trước, có khả năng là chuyến hàng đi tới Batavia đề bán cho khách hàng trung gian. Vì ngoài những chủng loại hàng sản xuất từ khu vực lò Cảnh Đức Trấn hàng gốm sứ tàu cổ Cà Mau còn được thu mua từ nhiều nguồn khác nhau. Do vậy, chúng tôi đã cho rằng hàng hoá này có thể dành cho thị trường Đông Nam Á. Tuy không có một chứng thực nào cho thấy những chủng loại hàng hoá này là hàng đặt của VOC nhưng chúng tôi cho rằng đây chính là loại hàng hoá buôn bán ngoài luồng của VOC. Tình trạng đặc biệt phong phú các chủng loại chén và đĩa dùng cho uống trà, cà phê xuất hiện trong khối lượng hàng hoá gốm sứ tàu Hòn Cau và Cà Mau cũng là những dẫn chứng cho thấy hàng Trung Quốc xuất khẩu rất mạnh vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.
Tàu cổ Hòn Cau và Cà Mau là hai con tàu chở hàng gốm sứ xuất khẩu của Trung Quốc đang trên lộ trình từ Quảng Châu đi tới Batavia để chuyển sang Châu Âu.
Sự tồn tại những kho báu đồ gốm sứ Tống – Nguyên xuất khẩu từ Nam Trung Quốc sang vùng Đông Nam Á và đi xa hơn nữa đã chứng minh hoạt động của tàu thuyền Trung Quốc ra nước ngoài trong khoảng thế kỷXI – XIV.
Năm 2013, tàu cổ Bình Châu có niên đại thời Nguyên, thế kỷ XIV, là con tàu cổ thứ 6 đã được khai quật tại vùng biển huyện Bình sơn tỉnh Quảng Ngãi thuộc miền Trung Việt Nam. ( Nguyễn Đình Chiến - Phạm Quốc Quân, 2013, tr 83-87). Đây là thông tin mới về tàu đắm cổ ở vùng biển Việt nam, góp phần làm rõ về “Con đường tơ lụa trên biển”.
Từ thế kỷ XIV, “Con đường tơ lụa trên biển” tồn tại là minh chứng cho việc phát triển buôn bán đường dài của Trung Quốc. 7 chuyến hải trình của Đô đốc Trịnh Hoà (1371 – 1435) đã đưa vàng bạc, đồ gốm sứ và tơ lụa Trung Quốc sang tận phía đông Châu Phi. Vai trò của những thuyền buôn Trung Quốc còn chuyên chở phần lớn khối lượng hàng hoá ngoại thương của Việt Nam, Thái Lan và Campuchia.
Trên vùng biển Đông Nam Á, đến nay chúng ta đã biết có nhiều con tàu của Hà Lan hoạt động và có nhiều tàu đã nằm lại vùng biển nơi đây. Chẳng hạn, tàu Quinam (1633), một thuyền buồm vuông đáy bằng, chạy từ Đài Loan tới Việt Nam. Tàu Kemphaan (1633), con tàu của Công ty Đông Ấn Hà Lan (gọi tắt là VOC, từ tiếng Hà Lan: Verenigde Ootindische Compagnie) nặng 100 tấn, dưới sự chỉ huy của Kornelis Hendritesz Denijs, rời Galle (Tích Lan) ngày 17- 12 - 1632 tới Đài Loan.
Tàu Grootebrock (1635), tàu 240 tấn của VOC tới Batavia ngày 28 - 4 -1631.
Tàu Keizerin, loại 200 tấn bị thất lạc ngày 29 - 10 -1636 ở vịnh Padanan ngoài khơi miền Trung Việt Nam trong chuyến đi từ Đài Loan tới Việt Nam. Hàng hoá được biết là đồ gốm sứ. Cho đến nay vẫn chưa xác định được vị trí tàu chìm. Tàu Gouden Leevw (1674), là chiếc tàu loại 330 tấn do VOC mua năm 1667 tới Batavia ngày 18 - 6 - 1666. Tám năm sau đó, con tàu bị đắm tại quần đảo Con Hổ ở vịnh Bắc Bộ.
Từ năm 1604 đến 1657, trên 3 triệu món đồ sứ Trung Quốc đã tới Châu Âu. Năm 1700, các tàu “Người Đông Ấn” đã dỡ hàng trong một ngày đến 146.748 món đồ tại một cảng ở Châu Âu cho thấy rõ nhu cầu tăng trưởng của thị trường đồ gốm sứ Trung Quốc. Do nhu cầu thị trường Châu Âu mà các lò sứ xuất khẩu của Trung Quốc phải đáp ứng mẫu mã mới - theo yêu cầu đặt hàng với kiểu dáng và hoa văn của mỗi món đồ. Bên cạnh các chủng loại và đề tài hoa văn truyền thống Trung Hoa, xuất hiện chủng loại mới và hoa văn theo phong cách Châu Âu.
Cho đến bây giờ, khi con dấu đá tìm thấy trong tàu Cà Mau đã được giải mã là Phan Đình Thái (Pan Ting Cai) là một chủ thuyền dòng họ có danh tiếng ở Quảng Châu. Điều đó cũng có nghĩa là con tàu Cà Mau được xác minh là một con tàu Trung Quốc chở hàng gốm sứ xuất khẩu hướng tới Batavia. Tất cả khối lượng hàng hoá ấy có thể không hoàn toàn hướng tới Châu Âu nhưng dường như có rất nhiều chủng loại đã được lựa chọn, đặt hàng để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người Hà Lan ở đầu thế kỷ XVIII.
Bài viết này tôi có sự tham khảo ý kiến của Giáo sư John Kleinem chuyên gia của Trường Đại học Amsterdam trình bày trong cuộc toạ đàm về con tàu đắm ở Cà Mau, ngày 11 - 4 - 2003 do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) tổ chức. Tôi cũng tranh thủ tham khảo ý kiến trong bài viết của Giáo sư lịch sử Paul A. Van Dyke, Trường Đại học Ma Cao và Giáo sư Chritiaan J.A Jörg in trong Catalogue của cuộc đấu giá của Sotheby’s Amsterdam, năm 2007.
Nhân đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp cuả các Giáo sư và việc công bố các kết quả nghiên cứu ngày càng làm rõ ý nghĩa và giá trị của hai chuyến tàu Hòn Cau và Cà Mau, đặc biệt là với giao thương quốc tế Đông Tây./.
TS.Nguyễn Đình Chiến
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Christie's Amsterdam, 1992. The Vung Tau cargo, Chinese export porcelain. Auction Catalogue.
Jorg, Christian & Michael Flecker,2001.Porcelain from the Vung Tau wreck. The Hallsrom Excavation, Sun Tree publishing, UK.
Nguyễn Đình Chiến ,2002a. Báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học dưới nước tàu đắm cổ Cà Mau (1998-1999). Hà Nội. Tư liệu Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiến ,2002b .Tàu cổ Cà Mau - The Camau Shipwreck (1723-1732). Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất bản, Hà Nội (in Vietnamese and English).
Nguyễn Đình Chiến ,2005. Khai quật khảo cổ học tàu cổ Cà Mau. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam. Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 309-313.
Nguyễn Đình Chiến ,2006a. “Ceramics on shipwrecks off Viet Nam”. Viet Nam Social Sciences, No 3 (113), p. 63 – 74.
Nguyễn Đình Chiến ,2006b. “Underwater Archaeological Excavations in Viet Nam’. Fisyhing the Interrupted Voyage, paper of UNESCO Asia – Pacific workshop on the 2001 Convension on the protection of the Underwater Cultural Heritage. Ed. by Lyndel V. Prott, p. 55-58.
Nguyễn Đình Chiến ,2007a. “Excavation Archaeology of Ca Mau shipwreck”. Catalogue Auction Sotheby’s Amsterdam, p.11-13.
Nguyễn Đình Chiến ,2007b. “Ceramics on shipwrecks off Viet Nam” paper of Exchange of Material culture over the sea: Contacts between Europe and East Southeast Asia in the 16th – 18th centuries (31 october – 2 November 2007, Institute of History and Philology, Academia Sinica, Taipei, Taiwan)
Nguyễn Đình Chiến & Phạm Quốc Quân,2008.Gốm sứ trong năm con tàu cổ ở vùng biển Việt Nam- Ceramics on five shipwrecks off the coast of Việt Nam. BTLSVN xb, Hà Nội (in Vietnamese and English).
Nguyễn Đình Chiến & Phạm Quốc Quân,2013. Khai quật tàu đắm cổ Bình Châu-con tàu cổ thứ 6 trong vùng biển Việt Nam . Trong BTLSVN, Thông báo khoa học,số 2, Hà Nội, tr. 83-87.
Nguyễn Đỡnh Chiến & Lờ Cụng Uẩn,2002 .Phát hiện tàu đắm cổ ở vùng biển Cà Mau chở đồ gốm Việt Nam thế kỷ XIV-XV. Những phát hiện mới về khảo cổ học. . Nxb KHXH. Hà Nội. Tr.416 – 418
Flecker, Michael, 1992.” Excavation of an Oriental of c. 1690 off Con Dao, Viet Nam”. International Journal of Nautical Achaeology (1992), Vol 21, 3, pp 221-244.
Gyorgyi Fajcsa'k, Nguyen Dinh Chien, Ja'nos Jelen, 2009. The Ca Mau Shipwreck Porcelain from the collection of Dr. Zelnik. Jelnet Ltd. Volume 1. Budapest.
Kleinen, John,2004. "Con tàu đắm ở Cà Mau có liên quan gì với Hà Lan". Xưa và nay, số xuõn 2004, tr 61-67.
Idemitsu museum of Arts, 1984. Inter-influence of ceramic art in East and West (in Japanese and English)
Jog, J.A. Christiaan - Michael Flecker, 2001. Porcelain from the Vung Tau wreck: The Hallstrom Excavation. Sun Tree publishing, Uk.
Sotheby’s Amsterdam ,2007. Made in imperial China, 76,000 pieces of Chinese export porcelain from the Camau Shipwreck, circa 1725. Auction Catalogue.