1.1. Tính đa diện, đa dạng, đa loại của tài nguyên di sản
Di sản văn hoá là những tài sản chắt lọc từ quá khứ, là kết quả của các hoạt động sống vật chất và tinh thần của con người. Di sản thiên nhiên môi trường là kết quả thành tạo của địa chất, tự nhiên kết hợp tác động của con người. Do vậy, về bản chất di sản có tính đa dạng rất lớn. Quan điểm hiện nay về di sản rộng hơn và sâu hơn so với trước đây, trước hết di sản không chỉ là những tài sản do thế hệ trước để lại chủ yếu mang ý nghĩa tinh thần và tâm linh, mà di sản được xác định là nguồn lực, là tài nguyên đa giá trị cả về tự nhiên, văn hóa, xã hội, con người… đối với phát triển xã hội. Tài nguyên di sản chứa đựng cả những giá trị quá khứ, giá trị hiện hành và tương lai. Theo Hiệp hội Nghiên cứu Tài nguyên Văn hóa Nhật Bản: “Tài nguyên văn hóa là dữ liệu quan trọng giúp chúng ta hiểu xã hội và văn hóa của xã hội ấy một cách tốt hơn tại một thời điểm nhất định. Tài nguyên văn hóa bao gồm cả vật thể và phi vật thể, cả những thứ không thể cất giữ trong các bảo tàng như công trình lịch sử, phong cảnh đô thị, nghệ thuật trình diễn truyền thống, lễ hội… Đáng tiếc, nhiều những tài nguyên văn hóa này đã không được phát huy đúng cách. Chúng ta cần phải biến những tài nguyên này thành những nguồn lực cho hiện tại và cho tương lai. Nghiên cứu tài nguyên văn hóa mở ra một lĩnh vực mới phát huy tài nguyên văn hóa trong phát triển văn hóa của con người và cho nghiên cứu khoa học”[1]
Theo cách nhìn về di sản hiện nay như trong Chiến lược EU 2020: ″Di sản được coi là khái niệm phức hợp, liên tục phát triển qua thời gian và kết hợp không chỉ những chiều kích lịch sử, văn hoá, thẩm mỹ, biểu trưng, tinh thần mà cả kinh tế, xã hội và chính trị” [2]. Theo nội hàm mở rộng như thế di sản bao gồm một chuỗi rộng những địa điểm khảo cổ, công trình, hiện vật, truyền thống và văn hoá, nhưng không chỉ là những di tích, di chỉ, di vật kế thừa từ quá khứ mà còn là những khía cạnh khác của sáng tạo và biểu hiện của con người thậm chí như ảnh, tư liệu, ký ức, sách, dụng cụ, thị trấn và những địa điểm thiên nhiên, cả vật thể và phi vật thể, thì nghiên cứu đánh giá di sản không chỉ để bảo quản, khai quật, trưng bày hay phục hồi tu bổ hay bảo tồn và bảo vệ biểu trưng, tinh thần và ký ức quá khứ… mà nghiên cứu di sản hiện nay được xác định như những hoạt động liên ngành mang lại những tác động đáng kể về kinh tế và xã hội. Ngày nay, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm mới về bảo tồn di sản – gọi là “bảo tồn tích cực”, nghĩa là đưa di sản vào phục vụ cuộc sống. Các di sản phải được bảo vệ, tôn tạo và tổ chức giới thiệu rộng rãi cho công chúng biết[3].
Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên thế giới (Ảnh Intrernet)
1.2. Giá trị đa diện của của tài nguyên di sản
Những năm gần đây đã có những thay đổi đáng kể trong tư duy về phát triển, bên cạnh ba trụ cột kinh tế, môi trường và xã hội, càng ngày người ta càng nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hoá như nhân tố quan trọng đảm bảo trường tồn tính bền vững, văn hoá được xem là nền tảng của phát triển bền vững. ″Về mặt nhận thức, phát triển bền vững được hiểu là khả năng phát triển kinh tế liên tục và lâu dài mà không làm cạn kiệt, không gây hậu quả tai hại tới môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá – xã hội. Mục tiêu đó quy định, trong quá trình phát triển, chúng ta cùng một lúc/đồng thời quan tâm tới việc duy trì, tái tạo, bảo vệ và phát huy hai loại tài nguyên/hai nguồn vốn của phát triển là thiên nhiên và văn hoá″[4]. Bảo tồn, phát huy giá trị của di sản, coi di sản như nguồn tài nguyên vô giá và vô tận (nếu biết cách gìn giữ và khai thác một cách khoa học) được coi là giải pháp cơ bản phục vụ phát triển bền vững.
Sự khác biệt văn hoá luôn có sức hút và ở nhiều quốc gia trên thế giới, di sản không chỉ đem lại nguồn lợi không nhỏ trong tổng thu nhập, mà còn có vai trò lớn trong việc quảng bá hình ảnh quốc gia. Tổ chức Du lịch Thế giới ước tính 37% du lịch toàn cầu xuất phát từ động lực mong muốn tìm hiểu văn hóa. Mối liên hệ quan trọng giữa xã hội và di sản văn hóa được thể hiện rõ nét trong du lịch di sản văn hóa. Khách du lịch di sản văn hóa đi thăm nhiều nơi hơn gấp 2 lần những khách du lịch khác, ở lại mỗi nơi lâu hơn 2,5 lần và họ cũng chi tiêu nhiều hơn[5]. Có nhiều ví dụ trên thế giới về những quốc gia mà phát huy giá trị di sản đóng góp trên dưới 10% GDΡ hàng năm, Italia là một trong những thí dụ điển hình về du lịch di sản, mỗi năm nước này thu hút trên 50 triệu khách quốc tế và chỉ riêng ngành du lịch đã đem lại nguồn thu gần 170 tỷ USD (xấp xỉ 85% tổng GDΡ của Việt Nam năm 2016)[6].
Bảo tồn di sản đem lại nhiều giá trị: văn hóa, thẩm mỹ, giáo dục, môi trường, xã hội, lịch sử cùng nhiều giá trị khác như kinh tế, phúc lợi xã hội…. Europa Nostra, Liên minh các nhóm Bảo tồn Di sản châu Âu, trong một tài liệu mang tên Cultural Heritage Counts for Europe đã ghi chú: “Di sản văn hóa mang lại nhiều lợi ích cho châu Âu ngày nay”, nhiều lợi ích trong số đó thuộc về kinh tế. Ở châu Âu, phục hồi di sản tạo ra nhiều hơn 16,5% việc làm so với xây dựng mới, và mỗi công việc trực tiếp trong lĩnh vực di sản văn hóa tạo ra 26,7 việc làm gián tiếp khác. Con số này trong ngành công nghiệp xe hơi chỉ là 6,3:1[7]. Ρhát huy giá trị di sản trên nguyên tắc ″sẻ chia văn hoá″ từ năm 1991 đến nay, bắt nguồn từ Ρháp, “Những ngày Di sản châu Âu” đã được tổ chức hàng năm vào tuần thứ ba của tháng 9 với các mục đích mở rộng khả năng tiếp cận di sản cho mọi đối tượng, đẩy mạnh khía cạnh sự kiện trong đời sống văn hóa và phân quyền trong thực hiện các chính sách văn hóa. Trong mỗi đợt tổ chức, bên cạnh những hoạt động thu hút công chúng đến với các loại hình di sản, các cuộc thảo luận về vấn đề di sản được tổ chức đồng thời, không chỉ đề cập đến vấn đề lịch sử mà về cả các khía cạnh pháp lý hoặc kỹ thuật (chẳng hạn như vấn đề trùng tu, hiện đại hóa hay chuyển đối công năng). “Những ngày Di sản châu Âu” mang lại hiệu quả hết sức đa dạng: kinh tế, xã hội và cộng đồng. Sự kiện này đặc biệt có tác động tới sự phát triển cảm giác gắn bó của cộng đồng với các địa danh ở nhiều cấp độ khác nhau (khu vực, thành phố, vùng, quốc gia). Hiện chưa có nghiên cứu đánh giá tác động được thực hiện nhưng một nghiên cứu được tiến hành năm 2009 về hiệu quả kinh tế của di sản đã phân biệt rõ những hiệu quả trực tiếp (bán vé, việc làm…), gián tiếp và đi kèm (các dịch vụ đi kèm như kinh doanh nhà hàng quanh các địa danh, du lịch văn hóa…). Quả thực di sản tạo thuận lợi cho cả một “hệ sinh thái” rộng hơn lĩnh vực du lịch với tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư rất tốt. Tại Pháp, người ta ước tính với 900 triệu Euro mà Bộ Văn hóa chi phí cho di sản sẽ cho phép thu về từ 500 triệu đến 2 tỷ Euro[8].
1.3. Tài nguyên di sản Việt Nam
Việt Nam có kho tàng di sản văn hóa khổng lồ (gần 40 ngàn di sản vật thể, 60 ngàn di sản phi vật thể, trong số đó UNESCO công nhận 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới[9], 7 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại[10], 2 di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp[11], 4 di sản tư liệu[12], gần 3000 di tích được xếp hạng quốc gia, 7.500 di tích cấp tỉnh cùng gần 8.000 lễ hội, trong đó hơn 3.000 lễ hội dân gian thể hiện rõ bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.
Luật Di sản Văn hoá Việt Nam khẳng định ″Di sản văn hoá Việt Nam là một bộ phận của Di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta″[13]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khoá VIII đã xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiệm vụ thứ 4 là bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá ″Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá.″[14]. Những giá trị to lớn mà di sản đem lại không chỉ làm phong phú đời sống tinh thần cho con người và xã hội mà còn chứa đựng các tiềm năng kinh tế, các giá trị vật chất. Sức hấp dẫn của di sản đã tạo động lực cho phát triển du lịch mang lại nhiều lợi ích về thu nhập, việc làm và phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Thật vậy, di sản ngày nay đã trở thành tài sản, tài nguyên đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và trở thành một bộ phận của ngành công nghiệp sáng tạo (công nghiệp văn hoá). Những hoạt động phát huy giá trị di sản các loại đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, xã hội[15]. Chỉ từ năm 2014 đến 2015 ngành du lịch đã đóng góp 6% GDΡ của cả nước, trong đó phải kể đến vai trò chủ đạo của các di sản văn hóa và di sản thiên nhiên ở Việt Nam[16]. Với những vai trò của mình, việc nhận diện đúng đắn các giá trị di sản cũng như tổ chức thực hành di sản, giúp cho giá trị di sản trở nên hữu dụng, đáp ứng nhu cầu xã hội, và yêu cầu phát triển bền vững là vô cùng cấp thiết nhằm tạo lập sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Lâm Thị Mỹ Dung, Chu Lâm Anh
(Trường ĐHKHXHNV, ĐHQG Hà Nội)
Nguyễn Anh Thư (Đại học Văn hoá Hà Nội)
Tài liệu tham khảo:
Chu Lâm Anh (2017), Tác động của danh hiệu Di sản Văn hóa Thế giới đến bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Khóa luận Tốt nghiệp ngành Việt Nam học, Đại học Thăng Long, Hà Nội.
Đặng Văn Bài (2017), Ρhát triển bền vững hay phát triển cân đối/ hài hoà từ góc nhìn di sản văn hoá, in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″ do Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia tổ chức tháng 3.2017 tại Hà Nội
Donovan D. Rypkema (2015), Bảo tồn di sản là cơ hội phát triển kinh tế, https://dothivietnam.org/2015/07/03/bao-ton-di-san-la-phat-trien-kinh-te/ truy cập ngày 4.10.2018.
ICOMOS (2010), Changing World, View of Heritage: Heritage and social change, Proceedings of the ICOMOS Scientific Symposium, Dublin, Ireland.
Jean‐Philippe Rousse (2016), Những ngày Di sản châu Âu, DI SẢN VÀ DU LỊCH Bảo tồn di sản đồng hành cùng phát triển kinh tế, tọa đàm ngày 27/04/2016, Sở Quy hoạch – Kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh.
Lâm Thị Mỹ Dung (2015), Tài nguyên Văn hóa – nguồn tài nguyên không vô tận, không tái tạo? (Một vài suy nghĩ về quản lý/phát huy giá trị tài nguyên Champa ở Khánh Hòa), in trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam “Bảo tồn và Phát huy giá trị di sản Lịch sử-Văn hóa phục vụ phát triển Du lịch” Nxb STQG, Hà Nội, tr. 148-162.
Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá năm 2009 (2017), https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Luat-di-san-van-hoa-2009-sua-doi-32-2009-QH12-90620.aspx
Nghị quyết 03/NQ-TW Hội nghị lần thứ Năm, BCH TW Đảng khoá VIII
Nguyễn Quốc Hùng (2007), Tác động của thay đổi khí hậu đối với di sản văn hoá và thiên nhiên – những vấn đề đặt ra, tạp chí Di sản Văn hoá số 4 (21), tr. 21-27.
Nguyễn Văn Tuấn (2015), Du lịch Việt Nam hành trình 55 năm thành lập và phát triển, Tạp chí Du lịch của Tổng cục Du lịch, số 7/2015, tr.6-7.
Rizzo và Mignosa cb (2013), Hanbook on the economics of cultural heritage, Edward Elgar Ρublishing.
Shinji Yamashita (2010), Cultural Heritage in the Age of Globalization: A Pespective from the Anthropology of Cultural Resource, in trong Working Papers “Cultural Resource Studies Asian Linkage Building Seminar 2010”, Kanazawa University, Japan, tr. 7.
Tổng cục Du lịch (2015), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản phục vụ chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 20130, in trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam “Bảo tồn và Phát huy giá trị di sản Lịch sử-Văn hóa phục vụ phát triển Du lịch” Nxb STQG, Hà Nội, trang 23.
Vũ Minh Giang (2017), Bảo tồn và Ρhát huy giá trị di sản văn hoá trong chiến lược phát triển bền vững: Những vấn đề đặt ra, in trong in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″ do Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia tổ chức tháng 3.2017 tại Hà Nội.
[1] Shinji Yamashita (2010), Cultural Heritage in the Age of Globalization: A Pespective from the Anthropology of Cultural Resource, In Working Papers “Cultural Resource Studies Asian Linkage Building Seminar 2010”, Kanazawa University, Japan, pp. 7.
[2] Rizzo và Mignosa cb (2013), Hanbook on the economics of cultural heritage, Edward Elgar Ρublishing.
[3] Tổng cục Du lịch (2015), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản phục vụ chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2030, in trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam “Bảo tồn và Phát huy giá trị di sản Lịch sử-Văn hóa phục vụ phát triển Du lịch” Nxb STQG, Hà Nội, tr. 23.
[4] Đặng Văn Bài (2017), Ρhát triển bền vững hay phát triển cân đối/ hài hoà từ góc nhìn di sản văn hoá, in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″ do Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia tổ chức tháng 3.2017 tại Hà Nội
[6] Vũ Minh Giang (2017), Bảo tồn và Ρhát huy giá trị di sản văn hoá trong chiến lược phát triển bền vững: Những vấn đề đặt ra, in trong in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″ do Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia tổ chức tháng 3.2017 tại Hà Nội.
[8]Jean‐Philippe Rousse (2016), Những ngày Di sản châu Âu, DI SẢN VÀ DU LỊCH - Bảo tồn di sản đồng hành cùng phát triển kinh tế, tọa đàm ngày 27/04/2016, Sở Quy hoạch kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh.
[9]Bao gồm: Quần thể di tích Cố đô Huế (1993), Vịnh Hạ Long (1994, 2000), Đô thị cổ Hội An (1999), Khu đền tháp Mỹ Sơn (1999), Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (2003), Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long (2010), Thành nhà Hồ (2011) và Quần thể danh thắng Tràng An (2014).
[10]Bao gồm: Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Huế (2008), Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (2008), Quan họ Bắc Ninh (2009), Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (2010), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ (2012), Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ (2013), Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh (2014).
[11]Bao gồm: Ca trù (2009) và hát Xoan Phú Thọ (2011)
[12]Bao gồm: Mộc bản triều Nguyễn (2009), bia đá các khoa thi tiến sỹ triều Lê và Mạc (2011), Mộc bản kinh phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm (2012) và Châu bản triều Nguyễn (2014).
[14] Nghị quyết 03/NQ-TW Hội nghị lần thứ Năm, BCH TW Đảng khoá VIII
[15] Chỉ tính riêng năm 2017, Quần thể di tích cố đô Huế, đón 3 triệu lượt khách du lịch, trong đó 1,8 triệu khách du lịch quốc tế, thu được 320 tỷ đồng riêng từ vé tham quan; Phố cổ Hội An đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ đồng riêng từ vé tham quan. Tổng thu du lịch tăng trên 5 lần, từ 96.000 tỷ năm 2010 lên 510.000 tỷ năm 2017, trung bình tăng 26,9%, đóng góp trên 7% GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián tiếp (Nguồn: http://cinet.vn/di-san/di-san-van-hoa-voi-phat-trien-du-lich-353248.html)
[16] Nguyễn Văn Tuấn (2015): Du lịch Việt Nam hành trình 55 năm thành lập và phát triển, Tạp chí Du lịch của Tổng cục Du lịch, số 7/2015, tr.6-7.