Những ngày tháng Hà Nội sục sôi chuẩn bị khởi nghĩa, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng là một trong những đại biểu của Hội Văn hóa Cứu quốc Thủ đô được cử đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào. Cách mạng tháng Tám thành công, ông là Đại biểu quốc hội khóa I của nước Việt Nam DCCH (1946). Sau ngày Hà Nội được giải phóng, ông là Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I). Ông sớm về cõi thiên thu (năm 1960), nhưng di sản văn học đồ sộ mà ông để lại vẫn sống mãi trong cõi Người!
Tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc và viết tờ Tiên phong trên quê hương Dục Tú (Đông Anh)
Sinh năm 1912 trong gia đình nhà nho nghèo ở Dục Tú, Phủ Đông Ngàn tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), rồi đi học ở trường Bonal (Hải Phòng), Nguyễn Huy Tưởng được học cả chữ Hán và tiếng Pháp. Mười tám tuổi, ông đã mang một bầu tâm sự và có ý thức rõ ràng về sứ mệnh người cầm bút: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi”. Do đó, khi Hội truyển bá quốc ngữ thành lập (năm 1938), ông đã tham gia Hội, cùng ông Quản Xuân Nam hoạt động truyền bá quốc ngữ ở Hà Nội. Khi phải chuyển xuống làm công chức nhà Đoan ở Hải Phòng, ông lại cùng với các ông Nguyễn Công Mỹ, Lưu Văn Lợi… xuống các ngõ phố, xóm thợ dạy dân lao động học chữ quốc ngữ. Tháng 11 năm 1943, nhà Đoan điều chuyển ông trở lại Hà Nội làm việc. Đó là điều kiện thuận lợi cho ông hoạt động. Từ tháng 4/1944, ông gặp gỡ các ông Nguyễn Xuân Huy, Như Phong, Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Huyền Trân.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trong kháng chiến chống Pháp
Bao tâm tư một nhà báo, nhà văn yêu nước sâu nặng đã được giải đáp khi ông được ánh sáng của Đề cương văn hoá Việt Nam soi chiếu. Ông tâm sự: “Đọc đề cương văn hoá của Đảng, tôi thích nhất khẩu hiệu: dân tộc-khoa học-đại chúng, nhất là khẩu hiệu dân tộc. Từ đó tôi tham gia Văn hoá Cứu quốc, và cũng từ đó mới có ý định viết văn để phấn đấu cho một lý tưởng” (Tham luận tại hội nghị những người viết văn trẻ lần thú nhất – tháng 11/1959). Ông tìm thấy ở Hội Văn hoá Cứu quốc một tổ chức giúp ông thể hiện được chí hướng đem văn học phụng sự dân tộc và ông lao vào hoạt động cho Hội. Nhà văn Nguyên Hồng từng ở cùng Nguyễn Huy Tưởng, đã viết: “Căn gác ở phố Pescadore (tức Phù Đổng Thiên Vương), có một anh công chức lương không đủ chi một bữa rượu, một văn sĩ cà mèng và một bà cụ buôn bán đầu đường cuối chợ chạy đói ở nhà quê ra - cái gác ấy là một trong những cơ sở liên lạc của Hội Văn hóa Cứu quốc”.. Nhà văn Tô Hoài đã có những chi tiết rất sinh động về cuộc sống và sự hoạt động say mê của ông trong Hội Văn hóa Cứu quốc sau ngày Nhật đảo chính Pháp: “Chúng tôi gặp nhau luôn, không còn giữ bí mật nghiêm ngặt như mọi khi chỉ có tổ ba người biết với nhau. Chị Tưởng đem các con đi tránh bom Mỹ về quê Dục Tú đã lâu. Một mình Nguyễn Huy Tưởng ở lại… chỉ thấy anh mặc quần sooc, với cái xe đạp trần trụi không phanh, không chuông đi khắp nơi. Chẳng mấy ngày anh không lên Nghĩa Đô gặp Nam Cao và tôi. Khi thì thúc bài cho báo Cứu Quốc; khi đem lên báo Cờ giải phóng, Tạp chí Cộng sản. Căn gác nhà Nguyễn Huy Tưởng có cửa khóa, anh đề số 1789, năm cách mạng Pháp, chúng tôi đều biết, ai đến cứ việc mở vào, lúc ngủ nhờ, lúc hội họp.. cả cái xe bò nón lá của Nguyên Hồng cũng được đấy đến để trước nhà của Nguyễn Huy Tưởng” (1)
Nhật ký của ông ghi rõ những ngày tháng quan trọng gặp các nhà văn, nhà báo, các đồng chí lãnh đạo của Đảng mà sau này, ông mới biết, đó chính là hoạt động cho Văn hóa cứu quốc: “Ngày 16/10/1944: đi với Ngọc Ban (tức đồng chí Mười Hương - PKT). Ngày 25/5/1945: Trần Huy Liệu đến ngủ đêm. Kính phục người có danh vọng trong xã hội. Ngày 9/6/1945: Luôn mấy hôm họp về văn hóa cứu quốc; được anh em tín nhiệm. Ngày 7/7/1945: Được tin được đi dự một hội nghị quan trọng(Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Huy Tưởng được đi dự Quốc dân đại hội ở Tân trào- PKT). Ngày 9/7/1945: Thảo luận các bài của báo Tiên phong” (2). Tờ Tiên phong, cơ quan ngôn luận của Hội Văn hóa Cứu quốc đã được viết ngay trong ngôi nhà thân thuộc của gia đình ông ở Dục Tú. Nhà văn Như Phong kể lại những ngày ở đó để viết số đầu tiên như thế nào: “ Trước hết, phải đặt tên cho tờ báo đầu tiên này của Văn hóa Cứu quốc. Có anh đưa ra tên Tiền phong. Nhưng cũng có người chợt nhớ ra rằng, Tiền phong đã được lấy cho một tờ báo Thanh niên của Đảng. Chúng tôi đổi ra là Tiên phong… chúng tôi định rõ nội dung số báo đầu tiên, rồi phân công nhau viết. Mỗi anh ngồi vào một xó. Anh thì có chỗ ngồi hẳn hoi ở bàn, anh thì lấy sập thờ làm bàn viết”(3).
Cách mạng đã khơi dậy sức sống mới của muôn người. Sau ngày 19/8/1945, ông hăm hở tham gia trong ban chuẩn bị dựng khán đài trên Quảng trường Ba Đình cho Lễ Độc lập, tiếp tục hoàn chỉnh việc in số 1 của tờ Tiên phong bị dang dở bởi bao sự kiện dồn dập của cuộc khởi nghĩa cuốn đi, và chỉ sau cuộc khởi nghĩa hai tháng báo đã ra mắt bạn đọc với chữ in typô, giấy tốt, trình bày đẹp. Cuối năm 1945, ông đi tuyên truyền và tiếp xúc cử tri Bắc Ninh, chuẩn bị cho bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trúng cử vào đại biểu Quốc hội khóa I; rồi ông viết kịch Bắc Sơn, công diễn tại Nhà Hát Lớn tháng 4/1946 (Hội Văn hóa cứu quốc đã in kịch bản vào tháng 7-1946) được các văn nghệ sĩ Thủ đô nhiệt liệt hoan nghênh. Thành công của vở Bắc Sơn (nhạc Văn Cao), mở đầu cho dòng kịch nói phục vụ quần chúng nhân dân. Tại Đại hội các văn nghệ sĩ lần thứ nhất tại Thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1946, Nguyễn Huy Tưởng được bầu vào Ban chấp hành Hội Văn hóa Cứu quốc; sau đó, ông là một trong những người phụ trách công tác đưa các văn nghệ sĩ lên chiến khu Việt Bắc tham gia đánh giặc bằng vũ khí văn nghệ của mình. Bước chân trải bao đèo núi Tuyên Quang, Thái Nguyên, làm báo của Hội Văn hóa Cứu quốc rồi làm thư ký tạp chí Văn Nghệ của Hội nhà văn Việt Nam; sáng tác ký, nhật ký chiến dịch, phóng sự mà nóng hổi nhất là Ký sự Cao Lạng, nhưng lòng ông vẫn hướng về Thủ đô Hà Nội vừa trải qua 60 ngày khói lửa. Mỗi chuyến đi thực tế ở mặt trận, gặp gỡ các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô, ông vui như Tết. Đó là thời kỳ đầy ắp vốn sống thực tiễn để đến năm 1958, Nguyễn Huy Tưởng viết Sống mãi với Thủ đô và truyện phim Luỹ Hoa.
*Người viết lịch sử bằng các tác văn học
Hai mươi tuổi, Nguyễn Huy Tưởng đã ghi trong nhật ký ngày 13/1/1932: “Người không biết lịch sử nước mình là con trâu đi cày ruộng; cày với ai cũng được, mà cày ruộng nào cũng được”. Ý thức sâu sắc đó được ông gửi gắm vào một loạt các sáng tác thơ ca ngợi Trần Bình Trọng, viết truyện Trần Quốc Toản cho các em sói con đăng trên tạp chí L’Annam Nouveau, cùng các tiểu luận: Ý nghĩa của việc thiên đô của Lý Thái Tổ trong lịch sử Việt Nam và Hội nghị Diên Hồng đăng trên tạp chí Tri Tân số 17 và số 23 (1941). Và rồi, khó có thể hình dung được, ông công chức Nguyễn Huy Tưởng biến phòng làm việc của Sở Đoan thành nơi sáng tác tiểu thuyết lịch sử An Tư công chúa và Đêm hội Long Trì, lấy bối cảnh Thăng Long thời Trần và thời Lê-Trịnh (đăng tải trên các số Tri Tân trong năm 1942-1943). Kịch bản Vũ Như Tô được đăng trên Tri Tân từ 18/11/1943 đến 20/4/1944 (năm 1946 được Hội Văn hóa Cứu quốc xuất bản thành sách lần đầu tiên). Những tác phẩm văn học đó, lấy hồn cốt là lịch sử Thăng Long thời Trần, thời Lê - Trịnh, đã đưa ông lên đỉnh cao trên văn đàn từ những năm 40 thế kỷ XX, mà cho đến nay, theo tôi, vẫn chưa có ai vượt ông trong thể loại sáng tác tiểu thuyết và kịch bản văn học lấy đề tài và bối cảnh lịch sử. Sau ngày Hà Nội giải phóng, tâm can vẫn đau đáu đưa lịch sử dân tộc vào văn học để giữ lấy cái gốc của văn học nghệ thuật, ông viết truyện cho thiếu nhi “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”, rồi tiếp tục sửa chữa lần thứ hai bản thảo “Sống mãi với Thủ đô”. Khi ông sửa tiểu thuyết lịch sử duy nhất về Trung đoàn thủ đô đến lần thứ ba thì bạo bệnh đã khiến ông phải tạm ngưng lại. Hơn nửa thế kỷ đã qua, lớp nhà văn của thời Văn hóa Cứu quốc mấy ai còn nhớ kịch bản phim Lũy Hoa dựa trên sườn bản thảo Sống mãi với Thủ đô được đưa in khi Nguyễn Huy Tưởng đang nằm trên giường bệnh? Nhà văn Nguyễn Tuân chính là người gợi ý với tác giả đổi tên bản thảo kịch bản phim Hoa trên chiến luỹ thành Luỹ Hoa, lại là người mang tay sách đầu tiên vào bệnh viện cho bạn xem; nhưng phải đến năm 1996, kỷ niệm 50 năm Toàn quốc kháng chiến, phim mới được chiếu trên đài truyền hình Hà Nội. Còn tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô chào đời sau khi nhà văn đã mất; nhưng như nhạc sĩ Văn Cao viết: “Cái chết của anh/ Cái chết một nhà văn/ Không bao giờ là cái chết”.
*Những lời tri ân
Nguyễn Huy Tưởng đã mất như một chiến sĩ của Hà Nội. Đi sau linh cữu ông có những chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô mà ông hằng gắn bó và đón họ ngày trở về trong đoàn quân chiến thắng mùa Thu năm 1954. Ngôi nhà của tuổi ấu thơ ở quê hương Dục Tú, nơi làm số 1 báo Tiên phong, đã được công nhận là di tích cách mạng. Năm 1996, Nguyễn Huy Tưởng được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về những đóng góp của ông cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhưng đã và sẽ còn mãi với thời gian, với văn hoá dân tộc một Nguyễn Huy Tưởng chân thành, đôn hậu, cởi mở, hết lòng yêu thương, nhân ái với bạn bè bởi ông đã chọn một cách sống đẹp của nhà văn: “Đừng viết cái gì sai với sự thực của con người, dù là dưới hình thức phục vụ. Người là thật. Phải thật với người”.
Những điều ông viết với ý thức của một nhà văn suốt đời lấy phụng sự dân tộc làm đích phấn đấu, đến nay, đọc lại, vẫn sáng ngời nhân cách cao quý.Tuyên ngôn về sứ mệnh cao quý của người nghệ sĩ phải biết sống chết vì nghệ thuật, và người cầm cân nảy mực phải biết trọng dụng, phát huy trí tuệ tài năng của họ đã được ông sáng tạo tài tình trong hình tượng nghệ thuật Đan Thiềm - Vũ Như Tô trong kịch bản Vũ Như Tô. Điều ông tâm đắc về văn học nghệ thuật phục vụ con người, viết cách nay hơn nửa thế kỷ, vẫn giữ nguyên giá trị tôn quý, sáng soi cho mỗi người cầm bút: “Hơn lúc nào hết, phải đề cao ý thức tôn trọng con người, tôn trọng cái địa vị chủ nhân của mỗi một người Việt Nam. Mỗi con người là một lâu đài thiêng liêng mà chúng ta phải tới với một tấm lòng chân thành tôn kính…( Tùy bút Một ngày chủ nhật, 1956). Ông “ Sống mãi với Thủ đô”, trong lòng mọi người, từ các em nhỏ đến các văn nghệ sĩ…bất tử cùng “Cửu trùng đài” trên bầu trời sao Khuê lấp lánh, lấp lánh…
Ths. Phạm Kim Thanh
Chú thích:
(1) Theo Nguyễn Huy Tưởng, một nhà văn Hà Nội, NXBHN, 2011, tr 60, 61.
(2) Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, NXBTN, 2006.
(3) Bài "Theo con đường đã chọn", trong sách " Sáng mãi lửa thiêng" của Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, NXBCTQG, 2009, tr 275.