* Người khởi thảo Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa; sau Cách mạng tháng Tám, là Trưởng phái đoàn của Chính phủ Lâm thời vào Huế tiếp nhận ấn kiếm của vua Bảo Đại
Nhắc đến Trần Huy Liệu, ai cũng nhớ ông là người đã thảo Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa. Trong Hồi ký của mình, ông đã viết lại giờ phút lịch sử này: “Đêm 13/8, trong một căn nhà lợp lá, tôi được đồng chí Văn ủy quyền cho thảo bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa. Mặc dù ngồi dưới ngọn đèn tù mù; những con tầm xuân, con thiêu thân bay quanh tới tấp, muỗi và dĩn thi nhau đốt làm tôi nhiều lúc nẩy người lên hay đập chân bành bạch, tôi vẫn say sưa nghĩ đến cảnh nước mất, dân nhục từ hơn tám mươi năm, nghĩ đến sự nghiệp cách mạng của mấy thế kỷ qua; những cuộc khởi nghĩa của Văn thân, của Việt Nam Quốc dân Đảng cho đến ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Mình được sung sướng làm cái việc nửa đêm truyền hịch hẹn ngày xuất quân…“Bản Quân lệnh số 1 lúc ấy tôi thảo một mạch, đọc đi đọc lại vẫn không sửa chữa một chữ nào. Viết xong tôi trao cho anh Văn… Thế là cuộc tổng khởi nghĩa đã phát động, Ủy ban khởi nghĩa chỉ còn chờ chính thức hóa tại Đại hội Quốc Dân”(3). Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc Dân đã khai mạc ở Tân Trào. Ủy ban Dân tộc Giải phóng (UBDTGP) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, ông Trần Huy Liệu được bầu là Phó Chủ tịch.
Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, ngày 13-8-1945
Các thành viên Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam DCCH,
tháng 8-1945
Các vị của UBDTGP về tới Hà Nội thì cuộc khởi nghĩa đã nổ ra từ 19/8 và giành đã thắng lợi trọn vẹn. UBDTGP lập tức chuyển thành Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Sau đó, theo chỉ định của Trung ương Đảng, một phái đoàn làm nhiệm vụ vào Huế nhận chiếu thoái vị của vua Bảo Đại đã được thành lập gồm: Ông Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền thay mặt cho Chính phủ Lâm thời, làm Trưởng đoàn, ông Nguyễn Lương Bằng thay mặt cho Mặt trận Việt Minh, ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng Bộ Canh nông, là thành viên. Ngày 25/8, phái đoàn rời Hà Nội vào Huế. Chiều ngày 30/8/1945, Lễ Thoái vị và trao ấn kiếm của vua Bảo Đại được tiến hành ở Ngọ Môn. Sau này, ông đã viết rất rõ ràng, khách quan về buổi lễ này với tiêu đề: Tước ấn kiếm của Hoàng đế Bảo Đại, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 18 (9/1/1960): “Ngày 30/8, theo giờ đã định, 5 vạn nhân dân nội thành Huế đã tập trung trước cửa Ngọ Môn… Bảo Đại chít khăn vàng, mặc Hoàng bào, đứng chực sẵn ở cửa. Phái đoàn bước lên Ngọ Môn, dân chúng hoan hô sôi nổi. Đến lượt Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Đọc xong, Bảo Đại giơ hai tay nâng chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn hình vuông. Tôi thay mặt Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam DCCH tiếp nhận hai vật tượng trưng cho chế độ…Sau khi nhận ấn kiếm, tôi thay mặt Chính phủ đọc một bài diễn văn tuyên bố xóa bỏ chế độ quân chủ từ nghìn năm xưa để lại và chấm dứt ngôi vua cuối cùng của triều Nguyễn”(4).
Chiếu thoái vị của Bảo Đại, tháng 8-1945
* Kiên định, dũng cảm trên con đường khoa học
Từ khi đọc di cảo của ông về cải cách ruộng đất, tôi rất cảm phục ông và thường liên tưởng đến màu đỏ của hoa nhạn lai hồng. Những ghi chép trong chuyến đi thực tế ở Thái Nguyên khi ông làm Trưởng ban Văn - Sử - Địa, nhãn quan trung thực, khách quan của người làm công tác nghiên cứu lịch sử, dũng khí của cốt cách tùng bách - tất cả đã thôi thúc, giục giã ông viết những lời tâm huyết gửi Đoàn ủy cải cách ruộng đất đầu năm 1954, nêu lên ý kiến cho rằng: khác với Trung Quốc, ở Việt Nam đại đa số là trung tiểu địa chủ, và một số địa chủ thân sĩ đều có tinh thần yêu nước, số đại địa chủ làm tay sai cho đế quốc chiếm tỷ lệ không cao nên Đảng có sách lược triệt để phân hóa, tránh đấu tố tràn lan. Sau đó, ông viết bài “Xét lại hồ sơ của giai cấp địa chủ phong kiến” với bút danh Hải Khách nhưng đến tháng 2-1957, bài mới đăng trên Tập san Văn - Sử- Địa (5). Những kiến giải khoa học về đặc điểm của giai cấp địa chủ phong kiến ở một số nước thuộc địa không phải đã được chấp nhận ngay thời điểm đó. Ông kiên định giữ vững lập trường và ý thức trách nhiệm của người cách mạng và tâm sự với đồng nghiệp trẻ: “Làm một người cách mạng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng của dân tộc, thì mình thấy Đảng làm gì sai phải nói”. Biết mình bị “trên cho gọi” để “uốn nắn” nhận thức “mơ hồ giai cấp”, nhưng ông vẫn như người lữ hành không biết mệt mỏi tới cái đích của sự thật. Cái sự “phải nói” ấy chính là tiết tháo của người chính trực. Trái tim nhân hậu, yêu thương của ông đã đem lại ánh sáng cho cuộc sống an lành cho một số người bị oan sai trong cải cách ruộng đất mà đến hôm nay, mọi người vẫn nhắc đến ông với tất cả sự trân trọng.
Trong những tháng ngày tâm tư chất chứa bao nỗi niềm ấy, ông đã đem tất cả lòng say mê, khí chất cương trực vào nghiệp sử. Sớm làm báo ở Sài Gòn và tiếp tục nghiệp báo từ thập niên 20 - 30 với các tờ Đông pháp thời báo (1925 - 1926), Hòn Cau tuần báo (1931 - 1934), Tiếng sóng bể (1931 - 1934), trở thành tay báo lão luyện với tờ Tin tức (1938), Đời nay (1938 - 1939), Tiếng suối reo (1941 - 1945) do ông làm chủ bút, ông cũng là người nổi tiếng trong nghiệp sử, sự nghiệp do chính ông chọn từ khi ở chiến khu Việt Bắc, khi đã vào tuổi 50 - cái tuổi tri thiên mệnh, chín với các quyết định của cuộc đời. Cũng không có gì lạ lẫm mới mẻ quá, bởi khi bị tù ở Hòn Cau ông đã có ý thức gom góp tư liệu để viết khởi nghĩa Thái Nguyên. Năm 1935, “Sơ thảo khởi nghĩa Thái Nguyên” đã được một nhà in tư nhân (Bảo Ngọc) xuất bản. Cuốn “Sơ thảo lịch sử cận đại Việt Nam”, ông viết xong ở Việt Bắc vào khoảng năm 1950. Vậy là cái tiền duyên đã gắn ông vào nghiệp sử. Còn tôi, thế hệ hậu sinh may mắn được làm học trò khoa Sử, Đại học Tổng hợp ngay sau khi đất nước thống nhất và được đọc những tác phẩm “Lịch sử tám mươi năm chống Pháp” (quyển 1 và quyển 2 gồm tập hạ và tập thượng); Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, 12 tập (viết chung với các ông Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Khắc Đạm, Nguyễn Công Bình, Văn Tạo, NXB Văn- Sử- Địa xuất bản trong ba năm 1956 - 1957 - 1958); “Lịch sử Thủ đô Hà Nội” do ông chủ biên xuất bản năm 1960; rồi những công trình nghiên cứu của ông về Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, về phong trào Cần Vương, Đông kinh Nghĩa thục… Lối hành văn khúc triết, trong sáng, nhuần nhị, giàu sử liệu và đầy sức hấp dẫn của ông đã thuyết phục tôi, đưa tôi đến những chân trời mới của sử học. Mạch nguồn của tinh thần dân tộc và yêu nước không bao giờ vơi cạn trong lòng ông được thỏa sức tuôn chảy trong những trang sách lịch sử. Cho đến ngày nay, những luận điểm cơ bản trong các công trình nghiên cứu đó của ông vẫn đúng đắn và được hậu thế bổ sung sâu thêm trong tiến trình phát triển của nền sử học nước nhà. Nhiều công trình của nhà sử học Trần Huy Liệu, người đã có những cống hiến xuất sắc cho nền sử học đất nước, trong đó “Lịch sử 80 năm chống Pháp” đã đem lại vinh quang cho ông: Tác phẩm được đưa vào làm sách giáo khoa trong các trường đại học và sau đó ông được nhân Huy chương Hum - Bôn; Bằng Viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Dân chủ Đức. Giáo sư Văn Tạo, cộng sự đắc lực của ông lúc đó còn nhớ: “Hồn cốt của sách này chính là cuốn “Sơ thảo lịch sử cận đại Việt Nam”” 500 trang in bằng giấy rơm trên Việt Bắc (loại giấy rất xấu, không phải như giấy đó) (6). Nhưng những ngày vui tươi hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi. Công trình cho bộ thông sử “Lịch sử Việt Nam” (2 tập) ông đã dồn biết bao công sức, trí tuệ lên đề cương, viết bản thảo cùng các đồng nghiệp như GS. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Thanh, ông Văn Tân, ông Nguyễn Công Bình…vậy mà sau khi Hội đồng duyệt bản thảo, vị trí chủ biên được giao cho người khác, đồng thời bản thảo bị gác lại. Đó quả là “sét đánh ngang tai” đối với ông và tập thể tác giả. Cuộc chiến tranh khốc liệt của đế quốc Mỹ hầu như đã cuốn tất cả vào dòng sông lớn - bảo vệ tự do độc lập Tổ quốc. Ông gác nỗi đau, lao mình vào công việc, phụng sự cách mạng và nhân dân, bởi ông còn là chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam; nhưng đối diện với chính mình, trái tim quả cảm, nhân hậu của ông như đã quá mệt mỏi với bao nỗi niềm ưu tư chồng chất bấy lâu. Và nó đã đột ngột ngừng đập ngày 28-7-1969, chỉ sau một ngày cả nước kỷ niệm thương binh liệt sĩ, và gia đình ông như mọi gia đình Việt Nam thời đó, đang có các con chiến đấu trên các chiến trường miền Nam ác liệt. Khi ấy, ông mới 69 tuổi.
Mọi người gọi ông là Viện sĩ, nhà sử học, nhà báo Trần Huy Liệu, người cán bộ cách mạng Trần Huy Liệu. Ở lĩnh vực nào, ông cũng ghi đậm nét dấu ấn tài năng và nhân cách của con người chân chính - một lòng một dạ vì dân tộc. Di cảo đồ sộ ông để lại trên các lĩnh vực lịch sử-báo chí, đã góp phần quan trọng cho nền sử học và báo chí cách mạng Việt Nam.
Ths. Phạm Kim Thanh
Chú thích:
(3), (4): Hồi ký Trần Huy Liệu, NXB Khoa học xã hội, H. 1991, tr 354; 369-370.
(5): Ban Sử - Ðịa - Văn ra đời ngày 2-12-1953. Tháng 6-1954, Ban cho ra mắt độc giả Tập san Sử ký - Ðịa lý - Văn học, gọi tắt là Tập san Sử - Ðịa - Văn. Tháng 8-1954, Tập san Sử - Ðịa - Văn số 2 ra mắt độc giả. Ðến tập san số 3 ra tháng 10-1954 thì đổi tên thành Tập san Nghiên cứu Văn - Sử - Ðịa là cơ quan ngôn luận của Ban Nghiên cứu Văn học - Lịch sử - Ðịa lý. Từ số 1 (6-1954) đến số 48 (1-1959) - số cuối cùng, tập san đã đăng tải được 446 bài, trong đó có 332 luận văn nghiên cứu và 114 bài thông tin khoa học.
(6): Năm 1996, công trình Lịch sử tám mươi năm chống Pháp đã được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1.