Kỷ niệm 50 năm ngày mất (28/7/1969- 28/7/2019) của Viện trưởng đầu tiên Viện sử học (1960-1969) và 74 năm Cách mạng tháng Tám, chúng ta nhớ ông, một nhà sử học lớn, nhà báo xuất sắc của Việt Nam trong thế kỷ XX, một nhân chứng lịch sử đặc biệt trong thời khắc đặc biệt của dân tộc - thay mặt Chính phủ nhận ấn kiếm của vua Bảo Đại tại Ngọ Môn (Huế) vào chiều 30/8/1945, cách nay 74 năm.
Giáo sư, Viện sĩ Trần Huy Liệu (1901-1969)
* Gắn báo chí với hoạt động cách mạng
Trần Huy Liệu sinh ngày 5-11-1901 trong gia đình Nho học yêu nước ở làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, Nam Định. Thuở nhỏ ông học thầy Bùi Trình Khiêm ở Nam Định. Lớn lên, chí trai lập nghiệp, năm 1923, ông sớm lập thân ở Sài Gòn, cộng tác với các báo Nông cổ mín đàm, Ngòi bút sắt, làm chủ bút tờ Đông pháp thời báo . Ông lấy bút danh Đẩu Nam – ngôi sao sáng trên bầu trời Nam; hoặc cũng có khi ông lấy bút danh Côi Vị - ấy là non Côi sông Vị của quê hương ông. Năm 1927, ông viết “Một bầu tâm sự” (Cường học thư xã xuất bản, Sài Gòn, 1927), kêu gọi đồng bào tỉnh ngộ trước căn bệnh hủ nho trầm kha, đồng lòng duy tân để cứu nước. Và với ý thức “sĩ phu hữu trách” khi nước mất nhà tan, ông đã lao vào dòng thác đấu tranh, cùng với những người đồng chí hướng lập Đảng Thanh niên, Cường học thư xã, khởi xướng cao trào chống Pháp sôi nổi khắp Nam kỳ lục tỉnh.Vì vậy, ông bị thực dân Pháp kết án 5 năm tù cầm cố, đẩy ra Hòn Cau vào tháng 8-1930 với số tù 2.651, sau đó lại bị chuyển sang Côn Lôn, đến cuối năm 1934 mới được ra tù. Đó là bốn năm quan trọng nhất trong tuổi thanh xuân của ông. Trời biển Hòn Cau-Côn Lôn mênh mông, xanh ngắt một màu, những đêm trăng thanh huyền diệu với mối tình thầm kín cùng người nữ y tá tên Bách chưa từng biết mặt đã cho ông bao cảm tác thi ca, quyết sống để trở về với đời. Cũng chính trong ngục tù đế quốc, ông tự trau dồi lý luận, văn học bằng tiếng Pháp. Những cuộc đấu tranh nảy lửa với tư tưởng “Quốc gia dân tộc” của Việt Nam Quốc dân Đảng và tự đấu tranh với chính mình đầy đau đớn, dằn vặt, thống khổ trong tâm tư, ông đã bộc bạch trong hồi ký: “Bao nỗi niềm riêng đã ràng buộc tôi với những kẻ chết người sống hàng chục năm trời như một tổ kén mà tôi là con nhộng khó lòng thoát ra được”. Từ đó, ông nhận thức ra con đường mới để giải phóng dân tộc: với bản tính cương quyết, ông cùng 5 đồng chí (trong đó có Trung tướng Nguyễn Bình) đã dũng cảm tuyên ngôn trước anh em Việt Nam Quốc dân Đảng: chuyển sang chủ nghĩa cộng sản. Do đó, khi làm tờ báo Hòn Cau tuần báo (1931-1934), Tiếng sóng bể (1931-1934), ông đã gắn nghiệp báo với cách mạng.
Báo Le Travail (Lao động), tuần báo chính trị và kinh tế xuất bản thứ 4 hàng tuần bằng tiếng Pháp tại Hà Nội, số 6, ngày 21/10/1936
Trụ sở báo “Tin tức”, cơ quan ngôn luận của Mặt trận Dân chủ tại số nhà 105 phố Henri d’Orléan, Hà Nội, năm 1938. (nay là phố Phùng Hưng)
Mãn hạn tù ở Côn Đảo, thực dân Pháp cho ông “được” quản thúc ở quê. Đầu năm 1935, ông cùng Nguyễn Đức Kính - người đồng chí đã từng hoạt động với nhau từ năm 1930 lên Hà Nội làm báo Đời mới. Nhưng đời sống bần hàn khiến cho các cựu chính trị phạm không nuôi nổi tờ báo, nên hết Đời mới sang Tiếng vang làng báo, Kiến văn mà vẫn long đong. Ông vừa bị mật thám theo dõi hành tung, vừa không có việc làm. Năm 1936, Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền đã thi hành một số chính sách tiến bộ cho các nước thuộc địa. Nắm lấy điều kiện thuận lợi, Trần Huy Liệu và các đồng chí trong làng báo tập trung ở báo Hồn trẻ, tiếp đó là báo Le Travail, Rassemblement, En Avant, Hà Thành thời báo, Thời thế, Tin tức, Đời nay. Ông liên tục viết và cùng các đồng chí của mình hoạt động báo chí công khai - Trần Đình Long, Đào Duy Kỳ, Khuất Duy Tiến, Nguyễn Mạnh Chất, Trần Đình Tri, Nguyễn Thường Khanh (tức nhà thơ Mai Ninh)... Có thể nói, khi đó, nhà báo Trần Huy Liệu đã sống những tháng ngày hạnh phúc trong nghề báo và trong đời hoạt động cách mạng. Cuộc sống kham khổ ở chốn đô thành cũng là chuyện bình thường của người làm báo cách mạng, ông kể lại trong hồi ký chân thực: “Lúc đầu, nhà tôi ở bãi Phúc Xá, vì thuê nhà gianh ở ngoài bãi thì được rẻ tiền hơn. Mùa nước, hằng ngày đi về, tôi phải lội qua một quãng đường ngập, cứ đến chỗ cột đèn là dừng lại, cởi quần dài ra, rồi sang bờ bên kia lại mặc lại, mãi sau mới tiến được vào ở trong thành phố; nhưng mặc dầu ở chui rúc một xó nhà nào, chủ nhà biết rồi thì cũng không muốn cho thuê; cả người ở chung cũng không muốn ở chung, vì bị mật thám rình mò những người qua lại nhà, làm phiền nhiễu đến họ”(1) Dĩ nhiên vẫn là ở nhà thuê, và nửa đêm, mật thám khám nhà là chuyện thường! Sớm hôm sau, ông lại đến trụ sở tòa báo hoặc đi diễn thuyết, họp báo giới…Cuối năm 1939, phe phát xít thắng thế, Chính phủ Mặt trận Bình dân đổ, vì vậy, thực dân Pháp lập tức thẳng tay khủng bố khốc liệt các chiến sĩ cộng sản. Lúc đó Trần Huy Liệu đã là một trong những nhà báo gạo cội của Đảng. Chúng ra lệnh đóng cửa các tờ báo đang phát hành công khai. Đêm 30/9/1939, mật thám ập vào 32 Hàng Than bắt ông (2), đưa đến Sở mật thám Hà Nội rồi vào Hỏa Lò. Tháng 1 năm 1940, chúng bí mật chuyển tù chính trị từ Hỏa Lò đầy lên Sơn La. Đường đi đầy gian nan lắm nỗi. Ông và ông Xuân Thủy chung nhau dây xích, vừa đi bộ vừa nói chuyện thơ ca cho quên nỗi mệt nhọc, đói khát, nhưng khổ nhất là mọi sinh hoạt ăn uống, tiểu đại tiện vẫn không được tháo xích; còn ông Xuân Thủy thì lại thèm thuốc lào nên cứ phải tha lôi nhau đi đến chỗ nào có tiếng điếu cày. Ấy vậy mà ông vẫn làm thơ “Sơn La hành khúc” đầy hài hước và lạc quan cách mạng: “Túi xách, chăn đeo, đứng sắp hàng/ Xăm xăm tiến bước thẳng rừng ngang” và cả thơ lãng mạn khi bắt gặp hình ảnh cô gái Thái ở Châu Yên “Hoa rừng một đóa càng nhìn càng tươi”. Trần Huy Liệu là thế! Trong cá tính ông, chất quân tử và chất lãng mạn hóa quyện trong máu thịt, làm nên một Trần Huy Liệu thật cương trực, thẳng thắn mà cũng thật tình trong số phận cuộc đời.
Ở Sơn La, ông được các đồng chí tín nhiệm bầu làm Bí thư chi bộ. Điềm đạm, cởi mở, chân tình, chịu khó học thêm tiếng Pháp, viết lý luận về chủ nghĩa xã hội …ông cùng ông Tô Hiệu là linh hồn của chi bộ và Ủy ban tranh đấu. Cuộc tuyệt thực dưới hầm Sơn La kéo dài từ 13-5 đến 24-5-1941 là cuộc đấu tranh dữ dội nhất, khốc liệt nhất. Tên Cút xô khét tiếng gian ác đẩy 156 người xuống hầm qua 21 bậc gạch với diện tích chỉ nhốt được 11 người và có một lỗ thông hơi duy nhất. Là người phụ trách Ủy ban tranh đấu, ông khéo léo mượn truyện Hán Sở tranh hùng với Hàn Tín trong “Bối thủy trận” để động viên anh em giữ vững ý chí chiến đấu, đồng thời có quyết định sáng suốt để gìn giữ lực lượng. Trong lao tù khủng khiếp, nơi “ma thiêng nước độc”, ông đã tự trau dồi, rèn luyện khí tiết người cộng sản mà những bài thơ của ông còn lưu giữ được cho chúng ta thấy một tâm hồn, một khí phách của nhà thơ Trần Huy Liệu. Đến nay, mỗi khi trở lại thăm di tích, nhà tù Sơn La, mọi người vẫn nhớ bài thơ “Qua thăm gốc ổi” đầy bi thiết viếng các đồng chí của ông: “Thịt xương đã gửi cho rừng núi/ Hận vẫn còn mang với tháng ngày”. Cố nhà văn Hoàng Công Khanh, người may mắn được cùng ông trong những năm ở ma thiêng nước độc Sơn La, khi còn sống, đã từng nói rằng: “Những lúc tâm tình bên nhau, anh ấy bảo tôi: “Ở đời rất hiếm những kẻ trượng phu”. Khí phách và thẳng thắn, chân thực với mình và với đời như Nguyễn Công Trứ, anh Trần Huy Liệu cũng minh bạch và đường hoàng như vậy”.
Ths. Phạm Kim Thanh
Chú thích:
(1), (2): Hồi ký Trần Huy Liệu, NXB Khoa học xã hội, H. 1991, tr 198-199; 360.