Trong cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tình thương yêu tới tất cả đồng bào dân tộc Việt Nam, luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tình thương của Người trải rộng tới mọi đối tượng, giai tầng trong xã hội, nhưng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Người luôn dành tình cảm đặc biệt nhất.
Ngày 03/12/1945, chỉ ba tháng sau khi nước Việt Nam tuyên bố độc lập, Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc đã diễn ra tại Hà Nội. Đến dự đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân biệt nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy độc lập càng cần phải đoàn kết hơn nữa” (Hồ Chí Minh 2011a: 130). Người thay mặt Chính phủ hứa sẽ thực hiện dân tộc bình đẳng, cố gắng giúp cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt: mở mang nông nghiệp, nâng cao trình độ học thức cho dân tộc, các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải cố gắng để cùng giành cho bằng được độc lập hoàn toàn, tự do và thái bình.
Với Người, các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em một nhà, là thành viên của đại gia đình các dân tộc Việt Nam... và chúng ta cần chung tay để xây dựng mái nhà Việt Nam, cùng giúp nhau tiến bộ.
Với tình cảm đó, khi Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số miền Nam được tổ chức tại Pleiku ngày 17 tháng 4 năm 1946. Do bận rộn việc nước, không thể đích thân tới dự, Người đã gửi bức thư tới đại hội, thể hiện sự quan tâm, tình cảm đặc biệt của Người đối với đồng bào các dân tộc.
Trong thư, Người viết: “Tôi tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào... Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau...” , nên tất cả chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để “giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”. Người căn dặn:”chúng ta phải “quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập”, …sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt” (Hồ Chí Minh 2011a: 250).
Để thực sự đoàn kết giữa các dân tộc, Người khuyên đồng bào các dân tộc phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, xóa bỏ những bất đồng, mặc cảm, tôn trọng và có trách nhiệm với đất nước, với dân tộc... “để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta” (Hồ Chí Minh 2011a: 249).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một gia đình người Dao ở xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, Tuyên Quang trong những năm ở Việt Bắc, năm 1952 (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp chung với các gia đình dân tộc tỉnh Lào Cai năm 1958
(Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Trong suốt những năm tháng lãnh đạo đất nước, từ thời trước cách mạng, trải qua cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Người luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng và tin tưởng giao các trọng trách cho cán bộ người dân tộc thiểu số. Rất nhiều cán bộ người dân tộc thiểu số đã được Đảng phát hiện và giao trọng trách quan trọng, như: Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn, Hoàng Đình Giong…
Thời kì tiền khởi nghĩa và suốt trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Người đã sống giữa sự bao bọc, chở che của đồng bào Việt Bắc. Hòa bình về Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ lòng nhớ ơncông lao của đồng bào: “Tôi luôn luôn nhớ đến lòng yêu mến và sự giúp đỡ của các đồng bào trong những ngày tháng tôi ở thượng du. Tôi luôn luôn nhớ đến tình thân mật mà các đồng bào đối với tôi trong những lúc chúng ta gặp gỡ nhau... Tôi luôn nhớ đến những lúc tôi đau ốm, anh chị em săn sóc ân cần như ruột thịt. Vì vậy, người tôi tuy có xa cách nhưng lòng tôi vẫn luôn luôn gần gũi anh em. Tôi chắc rằng cái tình thân ái ấy không bao giờ phai lạt” (Hồ Chí Minh 2011a: 239).Nhớ đồng bào, ngày hòa bình về Hà Nội, Người từ chối ở ngôi nhà xây, mà đề nghị làm cho Người ngôi nhà sàn giống như đồng bào dân tộc. Người đã nhiều lần trực tiếp đến thăm hỏi hoặc gửi thư cho các đồng bào dân tộc, động viên, khẳng định quyết tâm cùng chung sức chiến đấu với kẻ thù. Kịp thời khen thưởng những người con của đồng bào dân tộc thiểu số dũng cảm lập chiến công: Anh hùng Núp, Avai, Kan lịch…
Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp chung với các đại biểu dân tộc ít người trên toàn miền Bắc, năm 1963
(Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Tháng 8 năm 1963, nói chuyện tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi, Người nêu rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục đối với miền núi và nhắc nhở các cán bộ tuyên truyền phải ghi nhớ: Công tác tuyên truyền phải cụ thể, thiết thực. Cán bộ phải tự hỏi: Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cách thế nào? Và phải xuất phát từ nhiệt tình cách mạng, tình thương yêu chân thành đồng bào các dân tộc, từ tinh thần hết lòng phục vụ đồng bào các dân tộc thì mới tìm ra được cái hay cái đúng mà làm. Người đồng thời chỉ thị cho các ngành, các cấp ở Trung ương đều phải nhận trách nhiệm và có kế hoạch giúp đỡ thiết thực đồng bào miền núi về kinh tế cũng như về văn hoá, để miền núi nhanh chóng tiến kịp miền xuôi. Người dặn phải: “khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc. Người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại dễ cho mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm được, rồi không cố gắng.” Người dặn phải bảo vệ rừng, Người cảnh báo: “Phá rừng thì dễ, nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều”. Người kết luận về công tác dân tộc: “ Nói tóm lại, cái gì phải làm? Đoàn kết dân tộc, củng cố hợp tác xã, phát triển thủy lợi, mở mang đường sá, đẩy mạnh sản xuất.
Cái gì phải xóa?
- Mê tín hủ tục.
Cái gì cần phát triển?
- Văn hóa giáo dục, vệ sinh phòng bệnh.” (Hồ Chí Minh 2011b: 166)
Trước khi về với cõi người hiền, Người thiết tha dặn lại trong Di Chúc:” Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.” (Hồ Chí Minh 2011c: 612).
Chủ tịch Hồ Chí Minh với đoàn đại biểu phụ nữ các dân tộc chụp ảnh lưu niệm ở Vườn Phủ Chủ tịch, Hà Nội
(Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)

Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu phụ nữ các dân tộc ít người tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ II, ngày 2/6/1956 tại Phủ Chủ Tịch, Hà Nội (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Ngày nay, những lời dạy của Bác về bình đẳng dân tộc, về sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để đồng bào các dân tộc thiểu số có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao hơn đang được Đảng và Chính phủ tiếp tục phát huy, thông qua các nghị định, chương trình, dự án, đề án, chiến lược cơ bản lâu dài. Đặc biệt, ngày 14-3-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 402/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển đội ngũ, cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong tình hình mới.Đây là giải pháp có tính căn cơ, cụ thể hóa việc thực hiện bình đẳng cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bằng những việc làm thiết thực, Đảng đang hiện thực hóa lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc quan tâm đến đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Mới đó mà đã 75 năm từ ngày Người viết thư gửi đồng bào các dân tộc thiểu số (1946 - 2021). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng điều Người đã đúc kết: “Đồng bào các dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng thì đồng bào nghe, đồng bào làm và làm được” còn sống mãi (Hồ Chí Minh 2011b: 169).
Tài liệu tham khảo
Hồ Chí Minh 2011a. Toàn tập - Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh 2011b. Toàn tập - Tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh 2011c. Toàn tập - Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
TS. Chu Đức Tính