Sau bài diễn văn ứng khẩu của chủ tịch Ủy ban hành chánh lâm thời Nam bộ Trần Văn Giàu, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - bộ trưởng Bộ Y tế - thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tuyên thệ “cương quyết lãnh đạo đồng bào giữ nước, vượt khó khăn nguy hiểm, xây đắp độc lập hoàn toàn cho Việt Nam”.
Nhà thờ Đức Bà năm 1945. Súng nổ vang ở khu vực xung quanh nhà thờ Đức Bà ngày ấy - Ảnh tư liệu
Sau bài diễn văn ứng khẩu của chủ tịch Ủy ban hành chánh lâm thời Nam bộ Trần Văn Giàu, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - bộ trưởng Bộ Y tế - thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tuyên thệ “cương quyết lãnh đạo đồng bào giữ nước, vượt khó khăn nguy hiểm, xây đắp độc lập hoàn toàn cho Việt Nam”.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử mấy nghìn năm của nước ta, một đại diện của Nhà nước trung ương long trọng cam kết với nhân dân.
Tuần hành mừng độc lập
Sau đó, tới lượt đại biểu của nhân dân đọc lời thề: “Chúng tôi, toàn thể nhân dân Việt Nam, cương quyết một lòng ủng hộ chánh phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nếu Pháp đến xâm lược Việt Nam lần nữa, chúng tôi quyết:
- Không đi lính cho Pháp.
- Không làm việc cho Pháp.
- Không bán lương thực cho Pháp.
- Không dẫn đường cho Pháp.
Xin thề!”.
Cả triệu người đưa nắm tay lên nhất loạt hô to: “Xin thề! Xin thề! Xin thề!” như tiếng sấm vang rền.
Từ trên lầu Hãng ôtô Jean Comte (tòa nhà trắng, bên phải ảnh), người Pháp bắn xuống đoàn diễu hành - Ảnh tư liệu
Buổi lễ mừng độc lập kết thúc bằng cuộc tuần hành trên các đường phố lớn của khu trung tâm Sài Gòn.
Đi đầu là các toán thanh niên tiền phong gọn gàng trong đồng phục quần soọc, áo sơmi ngắn tay, tay cầm tầm vông vạt nhọn, thắt lưng đeo dao găm và cuộn dây thừng, đi nhịp nhàng theo tiếng hô “một... hai... một... hai”. Tiếp theo là đoàn viên Tổng công đoàn Nam bộ. Cùng với thanh niên tiền phong, đây là lực lượng nòng cốt trong khởi nghĩa giành chính quyền trong tuần trước.
Rồi đến bốn sư đoàn dân quân cách mạng, đây là những đơn vị vũ trang được thành lập một cách cấp tốc từ nhiều thành phần khác nhau: công nhân, thanh niên, học sinh lần đầu tiên gia nhập quân đội, cựu binh sĩ thời Pháp, Nhật. Nhà báo Trần Tấn Quốc miêu tả: “Y phục của dân quân toàn là quần đùi áo ngắn, người mang giày, người chơn không; vũ khí thì từ liên thanh nhẹ đến súng hai nòng, từ trường kiếm đến dao găm”.
GS Trần Văn Giàu nhớ lại: “Y phục đủ thứ, vũ khí thô sơ là phần nhiều, nhưng sức mạnh vô song của ta không phải ở vũ khí và y phục, mà chính là sự đoàn kết toàn dân và lòng hi sinh của các chiến sĩ cho Tổ quốc”. Đi sau cùng là các toán quần chúng đại diện các địa phương, tôn giáo, tầng lớp xã hội, ngành nghề...
Ở đầu mỗi toán là bảng ghi tên của toán: “Nông dân Bà Điểm”, “Học sinh trường X”, “Phật tử chùa Y”... Mọi người đi trong hàng ngũ ngay ngắn, vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu theo sự điều khiển của người toán trưởng.
Do lượng người tham gia diễu hành quá đông, ban tổ chức chia ra nhiều lộ trình: một nhánh từ đại lộ Cộng Hòa (nay là đường Lê Duẩn) theo đường Ba Lê Công Xã (nay là đường Đồng Khởi), một nhánh rẽ sang đường Yersin (nay là đường Nguyễn Du), sau đó đổ xuống các đường Thủ Khoa Huân (nay là đường Nguyễn Huệ), Phan Bội Châu (nay là đường Lê Lợi) rồi tỏa ra các đường phố chính của Sài Gòn.
Kháng chiến bắt đầu
Khi những toán cuối cùng sắp rời đường Cộng Hòa thì thình lình có tiếng súng, ban đầu lẻ tẻ, sau nổ vang nhiều nơi. Từ trên lầu Hãng ôtô Jean Comte (địa điểm Diamond Plaza ngày nay) và một số nhà lầu xung quanh nhà thờ Đức Bà, một số người Pháp núp sau các cánh cửa hé mở nhắm bắn những người đang diễu hành hòa bình. Các đội viên cứu thương nhanh chóng băng bó tại chỗ những người bị thương và đưa vào bệnh viện cấp cứu những người bị nặng hơn.
Trong khi quần chúng tiếp tục cuộc diễu hành theo lộ trình đã định, nhiều dân quân, thanh niên tiền phong... xông lên các tầng lầu, nơi vừa phát ra tiếng súng. Từ trên lễ đài, một thành viên ban tổ chức nhắc nhở anh em hãy bình tĩnh, chỉ bắt giữ những kẻ bắn lén, tuyệt đối không được đánh đập hay giết chết. Mệnh lệnh ấy được chấp hành nghiêm chỉnh. Chỉ một số nơi, chúng cố thủ trong nhà, buộc lòng anh em phải nổ súng tấn công để trấn áp.
Sau hơn ba giờ chiến đấu, trật tự đã được lập lại. Tổng kết có 47 người dân chết và bị thương. Phía Pháp có năm người chết và khoảng 30 người bị thương. Khoảng 1.000 người Pháp bị tình nghi có tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào cuộc nổ súng đã bị tạm giữ để điều tra. Theo thông cáo ngày 3-9, Ủy ban hành chánh lâm thời Nam bộ “sẽ thả bọn khiêu khích để chứng tỏ cho đồng minh ý muốn hòa bình của chúng ta, trái với cái dã tâm của bọn thực dân Pháp”.
Từ Kandy (Sri Lanka), tướng Anh Gracey thay vì lên án những thủ phạm đã gây ra vụ nổ súng, lại lớn tiếng chỉ trích những nạn nhân. Một ngày sau khi đến Sài Gòn, Gracey cho phép một đơn vị lính Pháp mặc quân phục của Anh, trà trộn trong đội hình của Anh đổ bộ lên Sài Gòn. Sau đó ông ra lệnh thả 1.400 lính Pháp (bị Nhật bắt giam từ cuộc đảo chính 9-3-1945) và trang bị súng ống cho số lính này cùng các người Pháp khác ở Sài Gòn.
Mặt khác, ông ra lệnh đóng cửa tất cả các báo chữ Việt (nhưng vẫn cho phép báo tiếng Pháp tiếp tục xuất bản bình thường), cấm người Việt Nam tụ họp, biểu tình, mang vũ khí (kể cả dao găm, tầm vông vạt nhọn...), ban bố tình trạng quân luật, ra lệnh giới nghiêm từ 21g30 đến 5g30 sáng. GS Trần Văn Giàu nhớ lại: “Thực dân Anh bịt miệng ta, trói tay ta để tạo điều kiện cho thực dân Pháp đánh ta”.
Chúng ta tìm mọi cách để không xảy ra một cuộc xung đột quân sự với Pháp, nhưng sau cuộc hội đàm với Cédile ngày 27-8 và vụ nổ súng ngày 2-9, chủ tịch Ủy ban hành chánh lâm thời Nam bộ Trần Văn Giàu thấy trước sau gì Pháp cũng gây hấn. Vì vậy, ông đề nghị Xứ ủy thành lập Ủy ban kháng chiến Nam bộ do ông làm chủ tịch.
Ngày 10-9, Ủy ban hành chánh lâm thời Nam bộ cải tổ thành Ủy ban nhân dân Nam bộ do tiến sĩ - luật sư Phạm Văn Bạch làm chủ tịch. Ông Trần Văn Giàu chỉ nhận chức phó chủ tịch kiêm ủy trưởng quân sự để dành thời gian chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến mà ông dự báo không thể tránh khỏi. Ông lo việc củng cố lực lượng vũ trang, sản xuất vũ khí, bố trí lực lượng, phân công người chỉ huy.
Trong tương quan lực lượng quá chênh lệch (VN giành độc lập mới được vài tuần, thiếu thốn mọi bề, còn Pháp được Anh giúp đỡ, được Mỹ ủng hộ), ông Trần Văn Giàu chủ trương chiến thuật “trong đánh, ngoài vây”: lập bốn “mặt trận tiền tuyến” ở bốn hướng nhằm bao vây địch trong nội thành càng lâu càng tốt, không cho chúng đánh nống ra ngoại thành, trong khi đó lực lượng của ta từ ngoại thành đột nhập phối hợp với lực lượng bám trụ trong nội thành liên tục tấn công địch theo cách đánh du kích.
Nhờ vậy, khi Cédile ra lệnh cho quân Pháp tấn công trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ trong đêm 22 rạng 23-9, quân và dân Sài Gòn sẵn sàng đánh trả. Ngay trong đêm lịch sử ấy, ông Trần Văn Giàu viết lời kêu gọi Nam bộ kháng chiến: “Hãy nắm chặt vũ khí trong tay, xông lên đánh đuổi thực dân Pháp, cứu nước. Cuộc kháng chiến bắt đầu!”.
TS. PHAN VĂN HOÀNG