Chỉ trong 42 năm tồn tại ngắn ngủi, nhà Đinh và nhà Tiền Lê đã nhiều lần tu sửa, xây mới cung điện. Chỉ riêng rìa phía Tây của cung điện mới trong giai đoạn hai của thời nhà Đinh đã dài 25m, thậm chí “phần rìa phía Bắc chúng tôi đo được 35m chiều dài nhưng chưa tìm thấy điểm kết thúc”, TS. Quý mô tả. Đã có chuyện gì xảy ra? Lý do nào khiến nhà Đinh quyết định mở rộng cung điện với quy mô lớn như vậy? Vì sao nhà Tiền Lê quyết định xây mới hoàn toàn? “Đó là những câu hỏi lớn mà chỉ khảo cổ học mới có thể bóc tách được, sẽ cần phải có thêm những nghiên cứu để làm rõ vấn đề này”, PGS.TS Tống Trung Tín nhận định. Dù vậy, là người đã từng tiến hành các cuộc khai quật lớn đầu tiên tại khu vực cố đô Hoa Lư, ông cho rằng việc nhóm nghiên cứu phân ra được các giai đoạn phát triển của di tích - hai thời kỳ dưới thời nhà Đinh, nối tiếp bởi một giai đoạn dưới thời Tiền Lê - đã là một điều “rất tuyệt vời rồi, bởi đây là công việc rất khó” mà bản thân nhóm khai quật của ông năm 1998 chưa thể làm được. “Phát hiện lần này đã gợi mở nhiều vấn đề hấp dẫn”.
Bên cạnh việc bóc tách thành công các công trình kiến trúc liên hoàn theo các giai đoạn liên tục xây dựng, mở rộng từ nhà Đinh tới Tiền Lê, nhóm nghiên cứu còn phát hiện thêm một điểm thú vị trong cách thức xây dựng cung điện. Vì hai nền cung điện được xây dựng trên nền đất yếu nên người xưa xếp lên rất nhiều lau sậy để chống lầy lún và gia cố thêm một lớp đất sét, bên trên lớp đất sét là một lớp chạc mỏng bằng đá ong. Phía rìa ngoài cung điện có thêm những hàng cọc gỗ để gia cố thêm cho nền bên trong. Từ đây, chúng ta đã có thể hình dung về bóng dáng của một đô thành quy hoạch hết sức nghiêm cẩn, bài bản cùng cách thức xây dựng sáng tạo phù hợp với vị trí địa lý đặc thù của khu vực.
Dấu tích vàng son trước thời Lý
Những cuộc khai quật tại kinh đô Hoa Lư không chỉ bác bỏ những nhận định mà theo PGS.TS Tống Trung Tín có phần “miệt thị dân tộc ta” của sứ giả nhà Tống, mà còn nhằm phác họa lịch sử giai đoạn thế kỷ X đầu Công nguyên, một giai đoạn quan trọng nhưng còn mờ tỏ của dân tộc, là giai đoạn ‘bản lề’ cho bước phát triển huy hoàng của văn hóa, văn minh Đại Việt, như lời của GS.TS Trần Quốc Vượng từ cách đây hàng chục năm: “Thăng Long khởi đầu từ Hoa Lư”.
Xuyên suốt các cuộc khai quật, dù các vết tích kiến trúc mà các nhà khảo cổ học phát hiện chỉ còn đoạn móng tường, gia cố nền… song vẫn cho phép chúng ta hình dung phần nào sự phát triển kiến trúc và nghệ thuật trang trí đương thời. Hầu hết các kiến trúc thời Đinh - Tiền Lê đều được xây/lát bằng gạch vuông và gạch chữ nhật. Cuộc khai quật trước đây đã phát hiện được những lớp kiến trúc được trang trí tinh xảo: nền lát gạch trang trí sen, phượng, mái trang trí sen, uyên ương, các loại ngói, đầu trang trí với nhiều biến thể để gắn phù hợp với các vị trí kiến trúc cụ thể.
Khu vực khai quật giữa Đền Vua Đinh và Đền Vua Lê nhìn từ trên cao.
“Trong số đó, tôi đặc biệt chú ý đến ngói sen”, PGS.TS Tống Trung Tín lưu ý, Trước đây các nhà sử học vẫn cho rằng ngói sen xuất hiện đầu tiên vào thời Lý - Trần, nhưng những phát hiện tại Hoa Lư đã giúp khẳng định rằng “ngói sen có ngay từ thời Đinh, và là phong cách đặc trưng của thời kỳ ấy”.
Ngói sen không phải là sự kế thừa duy nhất từ thời Đinh - Tiền Lê sang Lý - Trần. Trong quá trình khai quật, “chúng tôi cũng nhận thấy phong cách nghệ thuật của Đại Việt bắt đầu nảy nở từ thế kỷ X thông qua những viên gạch hoa sen, trang trí uyên ương, những tượng vịt, v.v”, TS. Nguyễn Ngọc Quý cho rằng phong cách trang trí nghệ thuật ấy vẫn tiếp tục phát triển ở thời Lý, thời Trần.
Cuộc thám hiểm tìm về quá khứ hơn 10 thế kỷ trước tiếp tục trở nên hấp dẫn hơn khi nhóm khai quật của TS. Nguyễn Ngọc Quý phát hiện được một thuyền tán thuốc với đầu trang trí hình cá hóa long. “Đó là một dấu tích nghệ thuật rất mới. Trước đây chúng ta cứ ngỡ hình tượng cá hóa long xuất hiện đầu tiên vào cuối thời Trần, vậy mà hóa ra nó đã có từ thời Đinh - Tiền Lê”, PGS.TS Tống Trung Tín bày tỏ sự ngạc nhiên trước bước ngoặt đáng chú ý trong lần khai quật mới nhất. Phát hiện này góp phần xác minh nghệ thuật trang trí hình rồng đã xuất hiện từ thế kỷ X.
Các cuộc khai quật đồng thời cũng tìm thấy thêm những loại đồ gốm thời Đinh - Tiền Lê với dòng gốm men trắng, xám nhạt; những đề tài trang trí trên mặt gạch hoa sen và chim phượng thể hiện rất rõ ràng và nghiêm ngặt quan niệm về âm dương: Vuông - tròn, đực - cái (chim phượng một con trống cường tráng, một con mái nhỏ nhắn), động vật - thực vật (chim phượng - hoa dây, hoa sen - bướm)... Có thể nhận thấy nghệ thuật Hoa Lư đã thoát khỏi khuôn mẫu của nghệ thuật Bắc thuộc và bắt đầu hình thành những yếu tố mới định hình cho nghệ thuật Đại Việt ở các giai đoạn sau.
Nghệ thuật trang trí, kiến trúc ở kinh đô Hoa Lư ở thời kỳ này còn có sự đan xen với những nền văn hóa khác. Bên cạnh sự xuất hiện đa dạng của các loại đồ sứ Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã tìm thấy trong nền cung điện thời Tiền Lê một sân rộng được lát kỹ lưỡng bằng gạch nung đỏ với các họa tiết hoa sen, uyên ương. Theo TS. Quý, kỹ thuật chế tạo loại gạch, ngói đất nung này mang nét đặc trưng của các vương quốc phía Nam, đặc biệt là Champa, với màu đỏ, độ nung vừa phải, khác với những loại gạch còn lại được sử dụng tại khu vực này.
Điều này phù hợp với mốc thời điểm năm 982, vua Lê Đại Hành đã mở những cuộc Nam chinh đầu tiên, chiếm được kinh đô Indrapura và giết vua Parameshvaravarman; sau một năm thì ông trở về kinh sư cùng nhiều quân sĩ, thợ thủ công, nhạc sư Champa. Theo chính sử, năm 984, vua Lê Đại Hành cho dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế, điện Phong Lưu, điện Tử Hoa, điện Bồng Lai, điện Cực Lạc, lầu Đại Vân, điện Trường Xuân, điện Long Bộc; lộng lẫy đến mức sử thần Ngô Sĩ Liên cả chê “làm cung điện thì lấy vàng, bạc mà trang sức”. Để xây dựng một công trình hoành tráng nhường ấy cần rất nhiều không gian, có lẽ đây chính là lý do nhà Tiền Lê đã xóa bỏ toàn bộ những công trình kiến trúc trước đó của thời Đinh, mở rộng khu vực cung điện. Chiếu theo sự phù hợp giữa chính sử và hiện trường khai quật, nhóm nghiên cứu đã “mạo muội đặt ra giả thuyết” rằng khu vực khai quật này có liên quan đến những cung điện được đề cập bên trên, đặc biệt là điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Phi Vân.
Nếu thực sự đã từng có một kiến trúc hoàng gia lộng lẫy đến nhường ấy thì hẳn tay nghề của những người thợ, kiến trúc sư xưa kia đã đạt đến tầm điêu luyện, là bước chuẩn bị tiền đề để xây dựng những công trình kiến trúc bề thế đạt đến đỉnh cao nghệ thuật sau này như điện Kính Thiên, hành cung Tức Mặc - Thiên Trường, hay thậm chí xa hơn là đỉnh cao nghệ thuật Cửu Trùng Đài.
Vẫn còn những bỏ ngỏ
Nước Đại Cồ Việt, thành Đại Cồ Việt, ngói Đại Cồ Việt, nghệ thuật Đại Cồ Việt, gốm men Đại Cồ Việt… đã hiện lên qua những nét cuốc của các nhà khảo cổ học. Kinh đô Hoa Lư lúc bấy giờ là kinh đô đẹp lộng lẫy của thời đất nước đang có khát vọng vươn lên.
Những bí ẩn về kinh đô Hoa Lư đã dần được khơi tỏ, nhưng thực ra mỗi sự lý giải lại dẫn đến thêm nhiều câu hỏi và các cuộc tranh luận không dứt. Đơn cử như trường hợp của viên gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây thành Đại Việt) được phát hiện trong cuộc khai quật năm 1998. “Những viên gạch này không nằm trên thành bia hay nơi nào lộ ra ngoài, mà lại xây trong nền móng, trong tường thành. Cứ một đoạn tường lại cài một viên vào, như vậy thì ai nhìn thấy được?”, PGS.TS Tống Trung Tín chia sẻ đầy hứng khởi về phát hiện của nhóm ông cách đây hơn 20 năm, dù vậy ông cũng thừa nhận rằng vào thời điểm đó ông chưa thể nào xác định viên gạch có từ triều đại nào. Cuộc khai quật gần đây của TS. Nguyễn Ngọc Quý đã cho rằng gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” xuất hiện đầu tiên vào thời Tiền Lê. Và nếu đúng như vậy thì theo PGS. TS Tín, liệu đây “có phải là một cách thể hiện chủ quyền dân tộc trong một thời kỳ vô cùng nhạy cảm?”. Ông cho rằng nhóm khai quật cần làm rõ thêm để đưa ra khẳng định cuối cùng, bởi tất cả những kết luận cho đến hiện nay vẫn chỉ là dự đoán.
Đó không phải là câu hỏi duy nhất, các nhà khảo cổ còn phải đối diện với những câu hỏi lớn hơn: Vì sao khu vực sân nền được phát hiện qua đợt khai quật năm 2021 lại có cốt nền cao hơn hẳn các kiến trúc đã tìm thấy trước đó trong khu vực? Phải chăng nó có vị trí hoặc vai trò gì đặc biệt? Liệu nó có phải điện Bách Bảo Thiên Tuế đã từng được đề cập trong chính sử?
Bên cạnh những câu hỏi đó, bản thân việc ghi nhận khu vực nội đô của kinh đô Hoa Lư ở thế kỷ X có quy mô lớn hơn nhiều so với những gì chúng ta từng tưởng tượng cũng là một phát hiện kéo theo nhiều vấn đề cần suy ngẫm. Trên thực tế, không gian phân bố di tích được nhóm khai quật ghi nhận có thể rộng gấp ba lần so với khu vực khoanh vùng bảo vệ Khu di tích Cố đô Hoa Lư hiện nay. “Tuy nhiên, hiện nay chỉ mới có diện tích gần 10ha là đất di tích được bảo vệ. Phần còn lại, chủ yếu là ở khu cánh đồng Nội Trong vẫn là khu vực đất thổ canh, thổ cư, đất nghĩa trang và đất dịch vụ du lịch”, TS. Nguyễn Ngọc Quý bày tỏ sự lo lắng. Trong tổng số gần 22,5ha diện tích đất ở khu Nội Trong, hiện có khoảng 6,5ha đất thuộc dự án dịch vụ du lịch đã bị đào múc xâm hại, dẫn đến di tích ở đây bị tác động đáng kể. Phần diện tích còn lại là đất ruộng, đất thổ cư và đất nghĩa trang của người dân xã Trường Yên, tuy nhiên “quá trình cư trú, sinh hoạt của người dân hiện đại đã và đang xâm hại rất mạnh đến các di tích vốn từ lâu đã là các phế tích còn lại rất ít ỏi trong lòng đất.”
Vì lẽ đó, nhóm khai quật đã mạnh dạn đề xuất tỉnh Ninh Bình “cần dừng lại tất cả các hoạt động xây dựng nhà cửa, chôn cất mồ mả, đào múc ao hồ ở khu vực này. Trong tương lai, cần có kế hoạch di dời các hộ dân hiện đang cư trú lẫn trong phạm vi di tích đến khu vực khác”. Đề nghị này chắc chắn sẽ vấp phải nhiều khó khăn và cần sự thấu hiểu từ người dân, nhưng lúc này, trong khi chờ đợi, TS. Nguyễn Ngọc Quý và các đồng nghiệp vẫn đang tiếp tục cuộc khai quật của mình tại các hố khai quật ở Cố đô Hoa Lư. Cuộc thám hiểm để lần mở vết tích kinh đô xưa vẫn đang diễn ra, vì “chúng tôi tin rằng mỗi ngày lại là một nhận thức chi tiết hơn về di tích”, như lời tâm sự đầy lạc quan của TS. Nguyễn Ngọc Quý.
Anh Thư
----
Tài liệu trích dẫn:
[1] Đại Việt Sử ký toàn thư (bản in Nội các quan bản) - tập I, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, tr. 214.
[2] Đại Việt Sử ký toàn thư (bản in Nội các quan bản) - tập I, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, tr. 227.
[3] An Nam truyện, Châu Hải Đường dịch - Hà Nội: NXB Hội Nhà Văn, tr.27.