Tôi đi thăm thành cổ Hwaseong cùng với Kang Soyoung, người bạn tôi quen khi cùng tham dự một cuộc hội thảo về mỹ học do trường Đại học nữ Ehwa ở Seoul tổ chức. Soyoung là nữ họa sĩ và là nhà làm phim hoạt hình độc lập, rất am tường lịch sử và văn hóa Hàn Quốc. Cô chở tôi trên chiếc xe Hyundai bé như món đồ chơi trong phim hoạt hình của cô, rời Seoul trực chỉ Suwon, nơi thành Hwaseong tọa lạc.
Tôi đi thăm thành cổ Hwaseong cùng với Kang Soyoung, người bạn tôi quen khi cùng tham dự một cuộc hội thảo về mỹ học do trường Đại học nữ Ehwa ở Seoul tổ chức. Soyoung là nữ họa sĩ và là nhà làm phim hoạt hình độc lập, rất am tường lịch sử và văn hóa Hàn Quốc. Cô chở tôi trên chiếc xe Hyundai bé như món đồ chơi trong phim hoạt hình của cô, rời Seoul trực chỉ Suwon, nơi thành Hwaseong tọa lạc.
Suwon cách Seoul khoảng 30 km về phía nam, là thủ phủ của tỉnh Gyeonggi-do, nơi bảo lưu nhiều di tích lịch sử thời Joseon (1392 - 1910) và nhiều lễ hội văn hóa dân gian đặc sắc, trong đó có tòa thành cổ Hwaseong là di tích kiến trúc được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa của nhân loại vào năm 1997.



Khởi thủy, vùng đất này có tên là Mosu-guk. Trải qua nhiều lần đổi tên, đến năm 1413 thì được vua Taejong của vương triều Joseon (Triều Tiên) đặt tên Suwon (Thủy Nguyên), có nghĩa là “nguồn nước”. Vào thế kỷ 18, thái tử Sado, con vua Yeongjo, bị vua cha và đình thần buộc tội mưu phản nên bị kết án tử hình. Mộ phần của Sado được chôn cất ở Suwon. Vợ và con trai của Sado là Jeongjo trốn thoát, về sau cũng lui về ẩn náu ở quanh vùng này. Khi vua Yeongjo thăng hà, vì không còn người kế vị nên con trai của Sado là Jeongjo được đưa lên ngai vàng. Tân vương Jeongjo muốn dời đô về Suwon, nơi có mộ phần của cha mình, nên cho xây đắp một bức tường thành quy mô bao quanh Suwon và khởi dựng những công trình kiến trúc đầu tiên để tưởng niệm cố thái tử Sado. Tuy nhiên, vì vua Jeongjo mất sớm nên ý định dời đô từ Seoul về Suwon bất thành. Song từ đây, vua quan triều Joseon đều tề tựu về Suwon hàng năm để dự lễ tế thái tử Sado, nên nơi này được người đời sau gọi là “thành phố của lòng hiếu thảo”.
Sau hơn 30 phút lái xe chúng tôi đến Suwon, một thành phố trẻ trung bao quanh tòa thành cổ kính rêu phong. Đó là Hwasong, công trình kiến trúc làm nên diện mạo của Suwon vào cuối thế kỷ 18 và là biểu tượng của thành phố Suwon hiện đại ngày nay.



Theo lời Soyoung, thành Hwaseong do kiến trúc sư Jeong Yakyong, người đứng đầu trường phái Thực học ở Joseon bấy giờ thiết kế và chỉ huy thi công theo lệnh vua Jeongjo. Đó là một tòa thành đồ sộ xây bằng gạch và đá hoa cương, kết hợp giữa các trường phái kiến trúc thành cổ của Trung Quốc và Nhật Bản với phong cách xây dựng pháo đài phòng thủ của phương Tây vào cuối thời Trung cổ.
Hwasong khởi xây vào tháng 1/1794 và hoàn tất vào tháng 9/1796, huy động hơn 700.000 nhân công để xây đắp tòa thành dài 5,74 km, cao 4 - 6 m, rộng 130 ha. Vua Jeongjo muốn xây dựng Hwasong thành một pháo đài bất khả xâm phạm, không chỉ mang tính phòng thủ mà còn coi nơi này như là kinh đô phía nam của đất nước. Công trình này đã tiêu tốn 870.000 nyang (đơn vị tiền tệ của Joseon đương thời) từ quốc khố, cùng 1.500 bao gạo để trả công cho thợ thuyền. Sau khi hoàn tất, Hwaseong trở thành một quần thể kiến trúc đảm nhận các chức năng quân sự, chính trị và thương mại, vừa giúp vương triều Joseon trụ vững trước các cuộc tấn công của kẻ thù bên ngoài, vừa là cửa ngỏ để Triều Tiên thông thương mậu dịch với bên ngoài.
Đó là một quần thể kiến trúc gồm 48 công trình, với 4 cổng chính, 1 thủy quan để xả lũ, cùng nhiều công trình quân sự như: đài chỉ huy, tháp canh, tường bắn, giác bảo, cửa thoát hiểm bí mật, phong hỏa đài... Các kiến trúc này là sự hợp nhất giữa nét đẹp của kiến trúc phương Ðông với những tiêu chuẩn kỹ thuật hoàn hảo về mặt quân sự của phương Tây. Jeong Yakyong, kiến trúc sư trưởng của Hwaseong đã phát minh ra cần cẩu (có sức nâng đến 15.000 kg), hệ thống ròng rọc và những thứ máy móc phức tạp khác để sử dụng trong việc xây thành Hwasong.



Bên trong tòa thành trước đây còn có một quần thể cung điện có tên là Haenggung (Hành cung) nằm dưới chân đồi Paldalsan, gồm 22 dinh thự với 600 gian phòng. Đây là nơi vua Jeongjo cùng thân quyến và tùy tùng trú tất mỗi khi họ đến Suwon viếng mộ hoàng tử Sado. Haenggung cũng là nơi đặt bộ máy cai trị của chính quyền Suwon, nơi tổ chức lễ mừng thọ cho các thành viên của hoàng gia, lễ ban yến cho các trưởng lão đại thần và là nơi diễn ra các kỳ thi Hội và thi Đình dưới triều Joseon.
Hwasong được đánh giá là một trong những điển hình hoàn hảo của nghệ thuật kiến trúc thành lũy thời cận đại trên toàn thế giới và là thành tựu đỉnh cao trong nghệ thuật kiến trúc quân sự của vương triều Joseon. Tòa thành là sự kết hợp khéo léo những ý tưởng khoa học tiến bộ nhất từ châu Âu đương thời với các nguyên tắc phong thủy trong nghệ thuật kiến trúc thành lũy của phương Đông, lại biết lợi dụng địa hình tự nhiên sở tại để nâng cao hiệu quả phòng thủ của tòa thành. Sự ra đời của Hwaseong không chỉ làm thay đổi diện mạo của Suwon mà còn biến nơi này thành một trung tâm chính trị và thương mại hàng đầu của Triều Tiên đương thời. Tuy nhiên, khi Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên từ năm 1910 thì Hwaseong bắt đầu xuống cấp. Tiếp đến, cuộc chiến tranh Triều Tiên trong các năm 1950 - 1953 đã phá hủy nhiều kiến trúc quan trọng của tòa thành cổ này.
Công cuộc tái thiết Hwaseong được Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thực thi từ năm 1970. Dựa vào những ghi chép trong sử liệu Hwasong Seongyeok Uigwe (xuất bản năm 1800), các nhà bảo tồn Hàn Quốc đã tái thiết gần như nguyên trạng kiến trúc nguyên thủy cổ thành Hwasong, tạo nên một mô hình “bảo tồn di sản giữa lòng đô thị hiện đại” để làm chuẩn mực cho công cuộc bảo tồn và tái thiết các di sản văn hóa cổ khác ở Hàn Quốc.



Sau hai giờ thăm viếng hầu hết những cổ tích một thời của Hwasong, chúng tôi men theo bờ thành đi về phía bắc để tham quan Hwahongmun. Đây là thủy khẩu quan trọng, giữ vai trò điều tiết nước lũ trong thành, đồng thời cũng là chiếc cầu kết nối tòa thành với những “làng mạc xưa - đô thị nay” ở bên ngoài. Theo lối này, chúng tôi “thoát” khỏi Hwasong và giáp mặt với một con phố đầy ắp những cửa hàng bán đồ lưu niệm và nhiều nhà hàng phục vụ món ăn truyền thống vùng Suwon.


Soyoung dẫn tôi vào một nhà hàng, gọi món samgyeopsal và món gujeolpan cùng hai chai rượu soju. Samgyeopsal là món thịt heo ba chỉ nướng, ăn kèm với xà lách, lá vừng, kimchi, ssamjang (tương đậu nành), tỏi, ớt xanh, chấm với muối tiêu trộn dầu vừng. Gujeolpan là món gỏi gồm 9 thứ khác nhau, bày biện trong bộ khay sứ có 9 ngăn: ngăn giữa là những lát củ cải thái mỏng. Các ngăn xung quanh có: lòng trắng trứng, lòng đỏ trứng gà, nấm hương, thịt bò xào vừng, cà rốt, dưa leo, ớt xanh xào với tôm bóc vỏ và củ cải trắng. Tất cả đều được thái chỉ và dọn riêng trong từng ngăn. Khi ăn thì gắp mỗi thứ một ít, bỏ vào trong lát củ cải cắt mỏng như tờ giấy, cuốn lại, rồi chấm với nước tương và dầu vừng có trộn sẵn muối tiêu.
Soyoung cho biết: “Ngày xưa gujeolpan chỉ được ăn vào ngày Tết hoặc trong các dịp lễ trọng vì chế biến rất cầu kỳ và tốn kém. Nhưng nay thì trở thành đặc sản của vùng Suwon, rất được du khách ưa chuộng. Đi thăm một tòa thành cổ thời Joseon thì cũng nên thưởng thức món ăn danh tiếng của thời kỳ này”. Đây có lẽ là gợi ý hay nhất của Kang Soyoung trong hành trình viếng thăm Hwaseong của tôi hôm nay.
TS.Trần Đức Anh Sơn