Để phục vụ công tác quản lý, nghiên cứu, bảo quản và phát huy giá trị các loại tiền kim loại cổ nước ta, Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) đã triển khai điều tra, nghiên cứu các loại tiền cổ tại một số bảo tàng.
Để phục vụ công tác quản lý, nghiên cứu, bảo quản và phát huy giá trị các loại tiền kim loại cổ nước ta, Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) đã triển khai điều tra, nghiên cứu các loại tiền cổ tại một số bảo tàng. Vừa qua. PGS.TS Hoàng Văn Khoán, một trong số ít chuyên gia đầu ngành về tiền cổ của Việt Nam, cùng cán bộ Cục Di sản Văn hóa đã về nghiên cứu tiền cổ tại Bào tàng Tổng hợp Bình Định. Chúng tôi có cuộc trao đổi với PGS.TS Hoàng Văn Khoán về vấn đề này.
 |
PGS.TS Hoàng Văn Khoán |
* Thưa PGS, hiện nay Cục Di sản Văn hóa đang thực hiện đề án điều tra, nghiên cứu các loại tiền cổ ở một số bảo tàng. Vậy việc nghiên cứu tiền cổ có ý nghĩa như thế nào, thưa PGS? - Đồng tiền biểu hiện sự phát triển của đất nước và đời sống của con người. Tiền cổ là một đối tượng nghiên cứu khoa học rất quan trọng. Nó có những giá trị đặc biệt, giúp cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu lịch sử, chính trị tư tưởng, văn hóa nghệ thuật và kinh tế của mỗi triều đại.
Ở lĩnh vực chính trị: khi thay đổi một triều đại, các vị vua mới thường cho đúc tiền mang niên hiệu mình để cho lưu thông hoặc đánh dấu sự tồn tại của triều đại. Vua là người thay mặt cho dân, nên niên hiệu trên đồng tiền là khẳng định một đất nước có chủ quyền, có lãnh thổ, có ngân khố, có quyền bình đẳng với tất cả các nước trên thế giới. Như vậy, chính trị, lịch sử mỗi thời đại thay đổi thì tiền tệ cũng thay đổi. Đối với các nhà khảo cổ học, khi đào một di chỉ, chỉ tìm thấy một đồng tiền, họ có thể đoán niên đại cho các di chỉ, vì trên mặt đồng tiền thường có ghi niên hiệu các triều vua.
Về văn hóa nghệ thuật: các đồng tiền cổ cho ta thấy được tư tưởng thẩm mỹ của người thông qua việc tạo dáng, cách bố trí hoa văn xưa. Chẳng hạn, đồng tiền hình tròn, lỗ vuông là tượng trưng cho trời, đất. Thư pháp trên đồng tiền cũng thể hiện tư tưởng của người xưa. Thời Lý, Trần đề cao Phật giáo, nên một số chữ trên đồng tiền viết theo lối chữ thảo mềm mại, thanh thoát. Thời Lê, Nho giáo thịnh, nên chữ trên mặt đồng tiền viết theo lối chân phương, rõ ràng. Những hoa văn trên đồng tiền cũng thể hiện văn hóa tâm linh của cha ông: mặt trời luôn ở bên phải và mặt trăng luôn ở bên trái, thể hiện sự hòa hợp giữa trời và đất, sự ổn định của vũ trụ và trật tự trần thế.
Trong lĩnh vực kinh tế: mỗi triều đại cho đúc tiền đều nhằm mục đích phát triển kinh tế. Thời Lê đúc tiền để đào kênh, đắp đập, phát triển hàng hóa, nông nghiệp, thực hiện chính sách trọng nông. Thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, do giao lưu kinh tế với nước ngoài, nên xuất hiện hệ thống tiền kẽm. Bên cạnh đó, giá trị đồng tiền còn ở chỗ dày, mỏng biểu hiện sự suy, thịnh. Tiền thời Tây Sơn vì thời gian quá ngắn, kinh tế chưa kịp phục hồi, nên đồng tiền rất mỏng, trọng lượng nhẹ. Đó là hiện tượng thiếu nguyên liệu, nhưng kỹ thuật đúc lại rất tốt, nét chữ rất rõ và sắc nét. Thời Lý - Trần - Lê kinh tế, xã hội ổn định, nên đồng tiền đúc bằng đồng tốt, dày, nét chữ rõ ràng.
Như vậy, việc nghiên cứu tiền cổ sẽ phần nào cho phép chúng ta đưa ra những kết luận khá chính xác về chính trị, lịch sử, kinh tế, xã hội và văn hóa nghệ thuật thời bấy giờ.
* Thưa PGS, năm 2004 ông đã giám định, phân loại sưu tập cổ vật lưu giữ tại Bảo tàng Quang Trung. Lần này, tiến hành giám định, nghiên cứu sưu tập tiền cổ tại Bảo tàng Tổng hợp Bình Định, ông có nhận xét gì?
- Vùng đất Bình Định dưới thời Champa đã từng có một thương cảng lớn: Cảng Thị Nại. Còn Cảng Nước Mặn là một trung tâm thương mại hàng đầu ở Đàng Trong suốt giai đoạn từ thế kỷ XVII- XVIII. Ngoài ra, Bình Định có nhiều cửa biển khác như Kim Bồng, An Dũ (Hoài Nhơn), Hà Ra, Phú Thứ (Phù Mỹ), Đề Gi (Phù Cát). Do vậy, các thương cảng cổ vùng Bình Định từng trao đổi buôn bán với tàu buôn nhiều nước. Việc Bình Định phát hiện số lượng lớn tiền cổ Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản với hàng trăm loại hình, nhiều kiểu dáng và chất liệu ở các cửa biển, như cửa An Dũ, cửa Đề Gi, cửa Thị Nại… và các cửa nguồn Kim Sơn, An Lão, đã chứng minh rằng Bình Định là vùng thương cảng sầm uất trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.
* Theo PGS, để sưu tầm, bảo quản và phát huy tiền cổ ở Bình Định tốt hơn, chúng ta cần phải làm gì?
- Theo tôi, Bảo tàng Tổng hợp Bình Định cần tạo chân rết cộng tác viên ở các địa phương, để họ kịp thời báo tin việc phát hiện tiền cổ ở địa phương mình. Nên trả tiền cho người có công phát hiện, thu gom hoặc chuyển nhượng thích đáng để động viên họ cộng tác. Khắc phục thủ tục giám định, định giá rườm rà, phức tạp, khiến người có cổ vật ngần ngại khi mang cổ vật đến giao cho Bảo tàng. Tất nhiên, phải thường xuyên xử lý bảo quản, để tiền không bị hoen rỉ. Việc phát huy tác dụng rất quan trọng, thế nhưng trong khi ở nước ngoài, đã có ngành “Cổ tiền học”, thì ở Việt Nam còn rất nhiều điều về tiền cổ mà chúng ta chưa biết đến. Riêng tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) có đến hàng chục bảo tàng tiền cổ, thì ở Việt Nam hiện nay chưa có bảo tàng tiền tệ nào. Việc xây dựng bảo tàng tiền tệ, hoặc trưng bày sưu tập tiền cổ ở các bảo tàng địa phương sẽ kích thích việc sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu tiền tệ. Với số lượng, loại hình tiền cổ hiện đang lưu giữ, Bảo tàng Tổng hợp Bình Định có thể trưng bày một sưu tập tiền cổ hấp dẫn; qua đó, giới thiệu cho người xem hiểu được phần nào những thương cảng cổ của Bình Định và nhiều lĩnh vực khác.
* Xin cảm ơn PGS.
- Nguyễn Thanh Quang (Thực hiện)