Gốm hoa nâu là một trong những dòng gốm nổi tiếng của Việt Nam, ra đời từ thời Lý và phát triển mạnh suốt thời kỳ Lý-Trần (thế kỉ 11-14). Gốm hoa nâu được phát hiện chủ yếu ở Hà Nội, Hòa Bình, Nam Định, Thanh Hóa… bao gồm nhiều loại hình, kích thước khác nhau: thạp, bình có kích thước lớn; bát, đĩa, đài sen có kích thước nhỏ ... với các đề tài trang trí phổ biến như: hoa sen, hoa cúc dây, hình rồng, sóng nước, chim, thú, chiến binh... Trang trí hoa nâu thường được tạo bởi 2 cách: hoặc là vẽ nâu rồi tráng men hoặc tráng men rồi cạo men để tô nâu. Gốm hoa nâu đã góp phần tạo nên truyền thống riêng biệt, độc đáo của gốm Việt Nam.
Bảo vật quốc gia:
Thống gốm hoa nâu, thời Trần, thế kỷ 13 - 14. Phát hiện tại Đền Trần, thôn Tức Mạc, Lộc Vượng, thành phố Nam Định, năm 1972
Thống có dáng tròn, miệng rộng, vai ngang chạm nổi băng cánh sen 2 lớp cánh. Thân thuôn dần xuống đáy, chia thành 8 múi nổi, trang trí hình bình hoa sen trên nền men trắng ngà. Thống thuộc loại gốm chất lượng cao, có kích thước lớn, cốt gốm khá dầy, men phủ đều, không bị nứt, sụp khi nung là bằng chứng về kinh nghiệm, kỹ thuật chế tác đỉnh cao và khả năng làm chủ nguyên liệu và nhiệt độ nung của nghệ nhân gốm đương thời. Thống gốm hoa nâu là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Hơn nữa, với nguồn gốc phát hiện tại hành cung Thiên Trường là một trong những vùng đất phát tích và là kinh đô thứ hai của nhà Trần. Vì vậy, có thể thống là vật dụng của Hoàng tộc nhà Trần.
Bảo vật quốc gia:
Chuông Vân Bản, đồng, thời Trần, thế kỉ 13-14, phát hiện năm 1958, biển Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng
Quai chuông trang trí hình bồ lao (dưới dạng đôi rồng đấu lưng vào nhau), nơi tiếp giáp ở vị trí cao nhất trang trí hình búp sen. Chuông có 6 núm gõ tròn hình hoa sen nở “mãn khai”. Miệng chuông loe, vành miệng đúc nổi 52 cánh sen với lớp cánh to, cánh nhỏ xen kẽ nhau.
Trên thân chuông khắc minh văn chữ Hán nói về nhà sư tu khổ hạnh và Cư sĩ Đại Ổ đã có công khai phá sơn lâm, mở mang đất đai dựng chùa Vân Bản và những người cúng dường đất đai cho chùa là Thị vệ nhân dũng thủ Nguyễn Văn Kịp và vợ Chu Thị Trãi cùng anh vợ là Chu Lâm. Đặc biệt, minh văn cho biết, lai lịch chuông do vị quan Tả bộc xạ cung tiến vào chùa. Minh văn còn là lời dặn gửi đời sau phát tâm công đức giữ gìn chùa, không để bị hủy hoại, không được khuyết thiếu việc hương hỏa. Hoa lợi từ ruộng đất cúng dường thì dành cho cúng lễ, giỗ chạp.
Đặc biệt, các chức quan được khắc trên chuông… mà theo Quan chức chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì “tả bộc xạ” là chức quan chỉ có ở triều Trần hay “thị vệ nhân dũng thủ” cũng là chức quan chỉ gặp trong bia ký thời Trần; cùng với đó còn có chữ “Nam” (được viết là chữ “Bính”) là 1 trong 10 chữ húy được quy định bởi vua Trần Anh Tông cũng được khắc trên chuông hay trang trí hình rồng có vảy đã cho thấy đây là chiếc chuông được đúc dưới thời Trần. Chuông Vân Bản không chỉ phản ánh trình độ đúc chuông của ông cha ta mà còn mang giá trị nghiên cứu về mỹ thuật, sự phát triển văn hóa và tôn giáo tại Đồ Sơn (Hải Phòng) - một trong những trung tâm Phật giáo quan trọng thời Trần thế kỷ 13 - 14.