Bảo tàng Lịch sử quốc gia đang lưu giữ nhiều loại hình hiện vật về lịch sử cổ đại, trung đại và cận hiện đại Việt Nam, trong đó có một sưu tập rất quý đó là tranh nghệ thuật về đề tài chiến tranh cách mạng.
Năm 2003 Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) đã tổ chức trưng bày phòng chuyên đề “Các tác phẩm nghệ thuật tạo hình với đề tài đấu tranh cách mạng” thu hút được sự quan tâm của đông đảo khách thăm quan trong nước và nước ngoài, đến năm 2010 bộ sưu tập đó lại được lựa chọn ra một số tác phẩm tiêu biểu và trưng bày thành một phòng trưng bày chuyên đề thường trực với nội dung “Triển lãm Tranh tượng “Đề tài chiến tranh cách mạng”. Phòng trưng bày sử dụngcác tác phẩm của các nhà họa sỹ có tên tuổi từ Bắc vào Nam, có nhiều tác phẩm đã được giải trong các cuộc thi và giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệthuật đợt II năm 2000 và đang được lưu giữ tai Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Chúng tôi giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu đang được trưng bày trên hệ thống trưng bày thường trực và tại phòng triển lãm chuyên đề của Bảo tàng.

1. Tượng: Bác Hồ dịch lịch sử Đảng.
Có số đăng ký Bảo tàng: 19002/ ĐD1219
Đây tác phẩm của họa sỹ điêu khắc Dương Đăng Cẩn sáng tác năm 1967.
Tượng Thạch cao “Bác dịch lịch sử Đảng” Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) mua năm 1968 để trưng bày trên hệ thống trưng bày phần nội dung Bác Hồ về nước năm 1941, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, sau hơn 30 năm hoạt động ở nước ngoài (giá tiền là 600đ, ngân phiếu).
Tác giả đã chọn hình tượng “Bàn đá chông chênh dịch sử đảng” của Bác trong thời kỳ Bác đang sống và làm việc tại hang Pác Bó thôn Pác Bó huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, năm 1941 khi mới trở về Tổ quốc để làm đề tài cho tác phẩm.
Tên gọi đầy đủ của tượng “Bác dịch lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô”. Kích thước tượng 50x120cm. Màu sắc: vàng, xanh xám.
Họa sỹ đã thể hiện Bác Hồ ngồi dịch lịch sử Đảng trên một phiến đá, hai chân bắt chéo nhau, tay phải cầm bút viết, tay trái đỡ quyển sách kê trên đùi, trên vai Bác khoác nhẹ một chiếc áo len dài tay. Đặc biệt tác giả thể hiện khuôn mặt Bác Hồ với đôi mắt đang nhìn vào trang sách, tập trung tư duy suy nghĩ. Với ngôn ngữ điêu khắc hiện đại nhưng chân thực gần gũi với tư duy thẩm mỹ của người Việt Nam, tác giả đã miêu tả được thần thái và sự thông tuệ đặc trưng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 58 năm ngày cách mạng tháng Tám thành công và quốc khánh 2-9, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) đã trưng bày phòng chuyên đề “Các tác phẩm nghệ thuật tạo hình với đề tài đấu tranh cách mạng” tác phẩm trên của họa sỹ điêu khắc Dương Đăng Cẩn đã được trưng bày tại phòng chuyên đề đó. Trong dịp này ông đã ghi chép lại quá trình sáng tác bức tượng “Bác Hồ dịch lịch sử Đảng” để Bảo tàng lưu giữ.
Hiện nay tác phẩm đó đang được trưng bày tại phòng số 29 với nội dung “Tặng phẩm của nhân dân Việt Nam và thế giới tặng Đảng cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Tượng thạch cao “Bác dịch lịch sử Đảng cộng sản Liên xô” được Hội đồng xét duyệt nhập kho cơ sở theo quyết định ngày 3-6-2004.
*Một số thông tin về họa sỹ Dương Đăng Cẩn
- Sinh ngày 31-1-1928
- Quê quán: Phú vang, Thừa Thiên Huế
- Dân tộc: Kinh
- Hội viên ngành Điêu khắc,
- Vào Hội năm 1968
- Địa chỉ: 6/199 Đường Thụy Khuê, Quận Tây Hồ, Hà Nội.
- Tốt nghiệp trường Đại học Mỹ thuật Ki-ép (Ucơraina) năm 1967
*Những tác phẩm chính:
- Bác Hồ dịch lịch sử ĐCSLX; chất liệu: thạch cao (50x120cm) Sáng tác năm 1967.
- Miền Nam trong trái tim Tôi; chất liệu: thạch cao (50x120cm) sáng tác năm 1968.
- Cả nhà đều giỏi ; chất liệu: đồng (40x80cm) sáng tác năm 1980.
- Thợ quyét vôi; chất liệu: nhôm (60x100cm) sáng tác năm 1981.
- Kiên trinh Đồng Lộc; chất liệu: gỗ (40x120cm) sáng tác năm 1995.
- Những thông tin trên được ghi chép theo hồ sơ thẩm định và bổ sung thông tin tranh tượng của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) và hội đồng Mỹ thuật Việt Nam thực hiện tháng 8/ 2003.
Bức tượng đặt tại Bảo tàng CMVN (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) là bức chính. Sau khi giải phóng miền Nam. Bảo tàng TPHCM phiên bản cái thứ 2 và Pác Bó Cao Bằng là cái thứ 3.
Nguyện vọng của họa sỹ là Bảo tàng cho đúc đồng để lưu giữ lâu dài hình ảnh Bác. Vào năm 2011 Tượng đã được đúc bằng đồng.

2. Tranh: Ba tầng áp bức
Có số đăng ký Bảo tàng:19021/ ĐD1237, là tác phẩm của họa sỹ Duy Nhất (tức Lê Năng Hiển) sáng tác năm 1958.
- Chất liệu: thuốc nước, vải lụa.
- Kích thước (67x109cm)
Góc dưới bên phải có chữ ký của tác giả: Duy Nhất 1958.
Địa chỉ: 65 ngách 41, ngõ 164 phố Vương Thừa Vũ, Hà Nội.
Tranh thuốc nước “Ba tầng áp bức” là tác phẩm của họa sỹ Duy Nhất sáng tác năm 1958. Thông qua tác phẩm, tác giả tái hiện xã hội Việt Nam dưới thời kỳ thực dân Pháp đô hộ xã hội đó, những người nông dân và nhân dân lao động Việt Nam phải chịu ba tầng áp bức bóc lột đó là thực dân Pháp, vua quan triều đình nhà Nguyễn và cường hào địa chủ ở nông thôn. Dưới hình thức tranh biếm họa, bức tranh Ba tầng áp bức giúp ta hiểu được cụ thể và và sinh động các tầng lớp đó, người đứng kẻ ngồi chồng lên nhay tùy theo đẳng cấp… Tầng trên cùng là viên quan đô hộ người Pháp to béo ngồi trên ghế sa lông có võng lọng che đầu, miệng hút thuốc, tay cầm ly rượu mời mọc, tay phải hắn đang lấy tiền trên đĩa do hai viên quan đại thần nhà Nguyễn ở tầng dưới dâng lên. Hai viên quan này một mặt đút tiền và phục dịch cho viên quan Pháp, mặt khác chúng lại nhận tiền đút lót của tầng lớp dưới và chỉ huy bọn chúng đàn áp bóc lột nhân dân ta. Sự phản động và thối nát của xã hội đó đã được phơi bày cụ thể sinh động chỉ qua một vài nhân vật tiêu biểu của ba tầng áp bức nhân dân, ngoài ra tác giả đã thành công khi lột tả được đời sống khổ cực, bần cùng của nhân dân ta thông qua hình ảnh những người dân đang héo mòn, rên xiết dưới 3 tầng áp bức, bóc lột. Tranh “Ba tầng áp bức” theo họa sỹ kể lại, năm 1958 ông và một số họa sỹ đã được lãnh đạo Bảo tàng Cách mạng (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) và họa sỹ Nguyễn Lai mời tham gia sáng tác các tác phẩm nghệ thuật để phục vụ nội dung trưng bày thời kỳ đầu mới thành lập. Sau quá trình nghiên cứu sách báo, tài liệu lịch sử, ông đã quyết định vẽ tái hiện xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân phong kiến. Qua hình thức tranh biếm họa. Hình mẫu để ông vẽ viên quan đô hộ người Pháp là thống sứ Sa tin. Viên quan này vốn “nổi danh” về tham tiền và ăn chơi sa đọa. Cũng theo tác giả kể lại, tác phẩm này đã được đồng chí Trường Chinh - Ủy viên Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam (năm 1958) và ban lãnh đạo BTCMVN (Nay là BTLSQG) chọn để trưng bày tại phòng số 1 của hệ thống trưng bày bảo tàng, phần nội dung XHVN thời kỳ thực dân phong kiến cai trị. Hiện nay BTCMVN còn lưu giữ tranh phục chế, tác phẩm này (được vẽ lại từ năm 1966) có kích thước nhỏ hơn (50x80cm), hiện nay đang trưng bày ở phòng số 1, 25 Tôn Đản, Hoàn Kiếm, Hà Nội, tranh phục chế không chép hình cô gái cạnh viên quan đô hộ người Pháp.
Nội dung tranh “Ba tầng áp bức”
Năm 1958, nhân dịp thành lập BTCMVN, họa sỹ Lai đại diện ban tổ chức đề nghị Tôi vẽ một bức tranh nói lên nỗi khổ của nhân dân ta bị đế quốc phong kiến áp bức như thế nào trong thời kỳ Việt Nam bị Pháp đô hộ. Tôi đã phác vẽ những hình tượng của ba tầng ấy như sau:
- Tầng thực dân, đế quốc Pháp.
- Tầng vua quan phong kiến nhà Nguyễn.
- Tầng cường hào địa chủ.
1/ Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta, chia Việt Nam ra làm 3 kỳ do một thống sứ, Trung Kỳ do một công sứ và Nam Kỳ là thuộc địa. Toàn nước có một viên toàn quyền thay mặt đế quốc Pháp cai trị. Có viên toàn quyền như Panh Dou mer đã xây cầu sắt Dou mer (nay là cầu Long Biên) có viên toàn quyền áp dụng chế độ bình dân như Pierre Parquiee. Nhưng đa số áp dụng chế độ cai trị khắc nghiệt. Tôi đã lấy 1 hình tượng điển hình là tên thống sứ ChâTel (ta gọi là sa tiền) đã cai trị nước ta một cách tàn ác: sưu cao, thuế nặng, khuyến khích dân uống rượu, hút thuốc phiện, lập ra nhà pha Hỏa lò, nhà tù Côn Đảo, nhà Lao Buôn mê Thuật, vvv. Hắn hay đội mũ cát, kiểu thực dân Anh che gáy chống nắng thuộc địa, mặc quần soóc ôm gái đẹp kiểu cô đầu rượu, gác chân lên đầu, lên cổ bọn quan lại nhà Nguyễn làm tay sai cho chúng.
2/ Bọn quan lại phong kiến gồm các vua hèn nhát như vua Khải Định, Vua Bảo Đại, các quan đại thần Khâm sai, mũ cao, áo dài như Hoàng Trọng Phu, Hoàng Cao Khải bợ đỡ quan tây, hay chức quan thượng thư có tây học và bộ máy cai trị bên dưới gồm quan phủ, quan huyện, chánh tổng, lý trưởng, lính cai, lính lệ, thưởng tuần..vvv
3/ Thứ ba là tầng lớp cường hào, ác bá, địa chủ, trực tiếp bóc lột, thu tô cho vay nặng lãi, hà hiếp dân nghèo.Sau ba tầng lớp kể trên là hình tượng nhân dân gầy yếu đi làm phu phen, bị bóc lột đến xương tủy dẫn đến cảnh chết đói điển hình hai triệu người năm Ất Dậu 1945.
Những thông tin về tác giả được ghi chép theo hồ sơ thẩm định bổ sung thông tin tranh tượng của BTCMVN (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) và Hội Mỹ thuật Việt Nam thực hiện 8- 2003.
Hiện vật nhập kho cơ sở theo biên bản cuộc họp ngày 3-6-2004.

3. Tranh: Em Trương Thị Con
Ký hiệu:19020/ĐD 1236
- Là tác phẩm của họa sỹ Nguyễn Phi Hoành.
- Chất liệu chính: sơn dầu vải, vẽ thủ công.
- Nền màu nâu và xanh.
- Kích thước: 80 00cm.
Hiện vật lưu giữ tại BTCMVN (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) trước năm 1975.
Là tác phẩm của họa sỹ Phi Hoành (Phi Hoành, Hoành Phi) sáng tác năm 1958.
Về thời kỳ chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam đang ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ (1954) khủng bố phong trào cách mạng. Tác giả vẽ hình ảnh Em Trương Thị Con bị địch bắn chết đang nằm trên con đường làng. Bên cạnh xác con là người mẹ ngồi đau khổ và căm phẫn trước tội ác của giặc. Bên dưới góc phải của bức tranh, tác giả ghi chú thích: “Em Trương Thị Con chết vì đấu tranh cho hòa bình thống nhất”.
Em Trương Thị Con là một trong những người dân yêu chuộng Hòa Bình ở miền Nam bị Mỹ - Diệm sát hại vì đã tham gia phong trào đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, thi hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất tổ quốc.
Tác phẩm tranh sơn dầu “Em Trương Thị Con” của họa sỹ Nguyễn Phi Hoành đã được Hội đồng xét duyệt hiện vật của BTCMVN (nay là Bảo tàng lịch sử quốc gia)
Một số thông tin về họa sỹ:
- Họa sỹ Nguyễn Phi Hoành, sinh ngày 18-10-1905. mất tại TPHCM.
- Quê quán: Thị xã Bến Tre
- Dân tộc: Kinh
- Địa chỉ: 40 Bís Phạm Ngọc Thạch, quận 3 TP HCM
- Hội viên nghành Hội họa, vào hội năm 1957.
- Tốt nghiệp trường Mỹ thuật Toulouse (Pháp) năm 1930.
Giải thưởng Mỹ thuật:
- Giải thưởng Maury (Talaile)
- Giải nhì triển lãm mỹ thuật năm 1957 Hà Nội.
Tác phẩm chính:
- Hai Bà Trưng ra trận – Sơn dầu (140x200 cm)
- Vua quang Trung vào Ngọc Hồi – Sơn dầu (140x200cm)
- Lễ phong súy Trương Định – sơn dầu (150x200cm).
- Thuyền Lúa – Sơn dầu (60x85cm)
- Bờ Hồ mùa đông (40x50cm)
Những thông tin về tác giả được ghi chép theo hồ sơ thẩm định bổ sung thông tin tranh tượng của BTCMVN (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) và Hội Mỹ thuật Việt Nam thực hiện 8- 2003.
Nhập kho cơ sở biên bản cuộc họp ngày 3-6-2004.
(Còn tiếp)
Hoàng Thị Hội (Phòng GDCC)
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.